Thục sơn thiếu niên (chương 126-130)
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Thục sơn thiếu niên (chương 126-130)
Thục Sơn Thiếu Niên
Chương 126-130: Bí ẩn sơ hiện
Đường Mật tạm biệt Sử Thụy, đứng hồi lâu trong đình viện ngập ánh trăng rồi đến chỗ Trương Úy.
Gã mở cửa, thấy thiếu nữ mỉm cười đứng trước cửa, đầu tiên ngẩn ra rồi không giấu được niềm vui: “Đường Mật, đồng ý nói chuyện với ta rồi hả?”
“Sao lại nói vậy? Ngươi không đến chỗ ta nói chuyện.” Đường Mật gục gặc đầu, giả bộ tức giận.
Trương Úy cuống lên, vội xua tay: “Không phải, ý ta là ngươi, ôi, ngươi, không phải, là ta, ôi, là ta quá ngốc.” Lắp bắp hồi lâu, gã mới nghĩ được cách nói ra ý cần diễn đạt: “Bằng hữu với nhau thì có ý kiến là bình thường, ta mà thông minh giống Mộ Dung Phỉ, biết chọn thời cơ thích hợp, dùng cách hợp lý để nói với ngươi thì hay quá. Nhưng ta thì lại khiến ngươi giận, hôm đó lời ta nói chắc khiến ngươi đau lòng? Kỳ thật mấy hôm nay ta vẫn tìm cơ hội, thận trọng nhìn sắc mặt ngươi nhưng càng nhìn càng không tìm được cơ hội, thật ra là do ta ngốc.”
Dáng vẻ luống cuống của gã khiến lòng nó trầm xuống, cụp mắt bảo: “Xin lỗi đầu to, hóa ra ta vô tình biến thành người khiến các ngươi phải nhìn sắc mặt mà đoán tâm tình. Ngươi thấy đấy, ta sắp thành Ma vương rồi.”
Trương Úy cho rằng nó nói thế vì bị mình chọc giận, lòng cuống lên, vội nói: “Không phải, sao ngươi lại so mình với Ma vương, ta cam tâm tình nguyện mà.”
Đường Mật ngẩng lên nhìn gã: “Những người theo Ma vương chưa hẳn vì bị bức ép, đầu to, ta nói thế có lẽ ngươi không hiểu nhưng kỳ thật huyết dịch mỗi người đều chảy ma huyết, chỉ là khi đến lúc mới biểu hiện ra mà thôi.”
“Ngươi muốn nói đến pháp thuật ma huyết gì đó của Hoa Tuyền hả?” Trương Úy hỏi.
“Không, ta hoài nghi đó chỉ là pháp thuật đơn giản khiến máu bắn lên không rồi trút xuống như mưa, có thể Mộ Dung Phỉ cũng thực hiện được. Còn những người dính phải máu đó sẽ là người kế thừa ma huyết, đời đời tương truyền chỉ là nàng ta nói cho Đọa Thiên đại nhân nghe, không, cho mọi người có mặt nghe. Ngươi hiểu không, có lẽ đó là đòn phản kích sau cùng của nàng ta trước khi thất bại. Việc này tất tạo cho Đọa Thiên đại nhân vô vàn khó khăn, tất nhiên không thể giết hết mấy vạn người dính phải máu đó, nhưng trong số những người có mặt, sẽ có người nảy sinh chủ trương giết sạch, để thuyết phục những người đó, đại nhân phải đau đầu lắm, tốn nhiều công phu. Liên quân ba nước vốn lâm thời tổ thành để đối kháng Ma vương, cũng vì thế mà có khả năng phát sinh xung đột. Dù sau cùng tất cả đều bị thuyết phục, thì Đọa Thiên đại nhân cũng phải nghĩ cách khắc chế pháp thuật này, đổ công đổ sức nghiên cứu cách đối phó với pháp thuật mình không biết gì tất nhiên hao phí tâm lực vô cùng, đại nhân cũng không trường thọ, Ma vương chiến tử được mười lăm năm thì đại nhân cũng khứ thế, chưa biết chừng vì có liên quan đến công việc quá lao tâm phí thần đó. Không chỉ vậy, sau khi chết đi, Ma vương vẫn khiến người đời hoảng sợ trước cảnh ma huyết tỉnh lại.”
“Nếu thế thì trí kế của Ma vương quả thật lợi hại.” Trương Úy cảm thán.
“Cũng không có gì, công việc trước kia của ta cũng là tung tin giả mỗi khi chủ thuê gặp phải vấn đề gì đó, giúp họ vãn hồi sai lầm.” Đường Mật thấy Trương Úy tỏ vẻ nghi hoặc, biết là mình lại nói hớ: “Ta nói lung tung gì thế nhỉ, đó đều là suy đoán, ta muốn nói chuyện khác với ngươi cơ.”
“Ma huyết mà ngươi nói là gì?” Trương Úy chợt nảy sinh trực giác, thiếu nữ trước mắt tuy cười nói nhẹ tênh nhưng có lời gì đó quan trọng cần nói.
Quả nhiên Đường Mật tắt cười, ngữ điệu trầm trầm nhưng cực kỳ nghiêm túc: “Ta muốn nói là trong một nhóm người sẽ có một người vì nguyên nhân nào đó mà đứng ở đại vị chủ đạo, có thể do tài cán của người đó hoặc do võ công, nói chung là dựa vào gì cũng được, từ thời điểm ban đầu, người đó dẫn cả nhóm người hoàn thành nhiều việc cực kỳ khó khăn, nên cả nhóm người đều tin tưởng, đều ỷ lại, cho rằng người đó làm được mọi việc. Thời gian lâu dần, vì mọi người chung quanh đều nhìn nhận người đó như thần linh vạn năng, dần dần bản thân người đó cũng thấy thế, một khi người đó nghĩ vậy, tức là ma huyết thức tỉnh, hơn nữa còn khiến ma huyết của những người theo mình tỉnh lại, thậm chí những người này còn cuồng nhiệt hơn. Sau đó, cơn cuồng nhiệt như vũng xoáy hút thêm nhiều người nữa vào, khiến ma huyết hiện hình ngày càng nhiều. Nếu người đó là một quân vương, thì cơn cuồng nhiệt này sau cùng sẽ lan đi cả quốc gia. Đầu to, ngươi tưởng tượng xem dưới sự lãnh đạo của người như thế, toán người sẽ gây ra những việc ngu xuẩn gì? Cũng như các ngươi bị ta đưa vào hiểm cảnh vậy.”
Trương Úy cảm giác đã hiểu, hỏi: “Người đó thông minh như thế, lại là lãnh đạo tốt dù làm việc gì đó ngu xuẩn, chỉ cần kịp thời hiểu ra thì sẽ cùng mọi người sửa chữa chứ? Biết sai mà sửa ngay cũng được mà.”
Đường Mật lắc đầu: “Không đơn giản như thế, không tính việc người đó có kịp hiểu ra không, chỉ nói nhiều khi vì tình thế bức bách, không thể sửa đổi được. Ví như Hoa Tuyền phát động chiến tranh thôn tính ba nước được nửa chừng, nhận ra hình như khởi binh hơi vội vàng, nhưng lúc đó, như ngươi xem thư tín các nơi gửi về cho nàng ta thì thấy, người Triệu đang chìm trong giấc mộng thắng lợi và mở rộng cương thổ, ngươi bảo nàng ta dừng lại bằng cách nào? Lại như hiện tại ta hiểu lúc trước mình tự tác thông minh, phạm phải bao nhiêu sai lầm, ban nãy đã xin lỗi Sử Thụy rồi, nhưng ta đưa các ngươi đến cảnh này, nếu ta không làm Ma vương thì tất cả sẽ chết ở đây, nên ta đành thực hiện theo kế hoạch đã định.” Nó hơi ngừng lời rồi nói tiếp, ngữ điệu trịnh trọng chưa từng có: “Đầu to, tuy hiện tại ta tỉnh táo nhưng không dám bảo đảm sau khi trở thành Ma vương, mười năm hoặc hai mươi năm sau vẫn còn tỉnh táo như bây giờ. Nếu có ngày đó, ma huyết trên mình ta tỉnh lại, xin ngươi đồng ý giúp ta một việc, trong số những người ta quen, chỉ ngươi thực hiện được.”
Gã cảm giác tâm tạng thắt lại: “Việc gì?”
“Xin ngươi cứ ở cạnh ta, nếu phát hiện ma huyết trên mình ta tỉnh lại thì nhắc nhở ta, nếu ta còn cố chấp thì cứ thẳng tay giết chết.”
Trương Úy kéo tay nó: “Không, chỉ cần ta còn ở cạnh ngươi, ngươi sẽ không bao giờ phạm sai lầm.”
Thiếu nữ dưới ánh trăng bạc chợt mỉm cười ngọt lịm: “Tức là ngươi đồng ý trông coi ta?”
“Đồng ý.”
“Vậy từ ngày mai ta sẽ là Ma vương.”
Người được phái đến giám thị bọn Đường Mật được lệnh triệt thoái, không để nó phát hiện. Biết những thiếu niên Thục Sơn này võ công không tệ nên những người theo dõi này không dám đến gần, thành thử chỉ biết báo lại việc hôm đó như sau: Đường Mật đứng một mình chừng nửa canh giờ trong sân rồi gõ cửa phòng Trương Úy, hạ giọng trò chuyện hồi lâu rồi mới về phòng nghỉ.
Tuy không biết Đường Mật và Trương Úy nói gì song bốn vị hộ pháp Xích Ngọc cung đoán được phần lớn, vì ngày hôm sau Đường Mật đã nói: “Được rồi, đã vậy ta đồng ý tiếp nhận việc mình là Ma vương chuyển thế. Các bằng hữu của ta đều sẽ đi theo dù ta mang thân phận nào. Mong các ngươi đừng làm khó họ.”
Bốn vị hộ pháp Xích Ngọc cung lập tức quỳ xuống cung nghênh Ma vương bệ hạ mới. Đường Mật đứng đó, chỉ nhìn thấy đỉnh đầu bốn cao thủ tuyệt đỉnh của võ lâm, đột nhiên nảy sinh ý nghĩ: Từ nay về sau, đứng ở vị trí này không hiểu sẽ thấy đỉnh đầu bao nhiêu người? Có bao nhiêu người để nó thấy được gương mặt chân thật? Số lượng đó tất vượt khỏi dự liệu của nó.
Theo những tri thức Đông Ngao dạy, nó mới biết hóa ra hắc đạo cũng phức tạp vô cùng. Nói đơn giản, hắc đạo phân thanh hai phe do và không do Xích Ngọc cung thống lĩnh, các môn các phái do Xích Ngọc cung thống lĩnh lại chia thành hai loại, một là bộ hạ của Ma vương sau khi chiến bại cùng thoái ẩn giang hồ sáng lập môn phái, hai là các môn phái phân liệt khỏi Xích Ngọc cung sau khi Hoa Anh chết. Võ công của những môn phái loại đầu chỉ một phần xuất phát từ Hoa Tuyền, còn lại vẫn tôn nàng ta là chủ cũ. Những môn phái loại thứ hai công hoàn toàn truyền từ Hoa Tuyền, chỉ do khi đó nội bộ Xích Ngọc cung bất hòa, nên không qua lại nữa, nhưng vì Xích Ngọc cung là tổ chức giang hồ duy nhất do Hoa Tuyền và Hoa Anh sáng lập, hơn trăm năm nay trên danh nghĩ vẫn nằm dưới quyền thống lĩnh của Xích Ngọc cung. Còn Đường Mật, không, nên là Ma vương chuyển thế, nhiệm vụ trọng yếu là thống nhất hai lực lượng này.
Bộ phận không do Xích Ngọc cung thống lĩnh đều là những tà phái độc ác, tuy không có dính dáng thật sự đến Xích Ngọc cung nhưng vẫn kính trọng Ma vương, Hoàng Bộ Ngang cho rằng chỉ cần Ma vương chuyển thế sẽ trùng chấn thanh thế của Xích Ngọc cung, tất họ sẽ nghe hiệu lệnh.
Lúc đó Đường Mật mới biết trên vai mình gánh cả trách nhiệm nặng nề của hắc đạo.
“Từ khi cung chủ thượng nhiệm chết, các vị không có cung chủ nữa?” Nó quan tâm đến việc quan trọng này.
“Tất nhiên có, cung chủ hiện đang bận việc, vài nữa sẽ đến. Hơn nữa cung chủ nói rằng chỉ cần chúa thượng trở về, Xích Ngọc cung sẽ do chúa thượng làm chủ.” Đông Ngao giải thích.
“Ngươi đó tên gì? Hiện tại ở đâu?”
“Đến lúc đó chúa thượng sẽ biết.” Hoàng Bộ Ngang đáp.
Đường Mật nhận ra kỳ thật mình không có quyền lợi chân chính, những người này vẫn nghe theo hiệu lệnh của vị cung chủ kia.
Đông Ngao nhận ra sắc mặt nó bất thường, đoán được nó nghĩ gì: “Việc trong cung tạm thời chưa thể giao vào tay chúa thượng, vì chúa thượng còn nhỏ, cần từ từ học tập nhiều việc. Tiếp nữa, chúa thượng vẫn chưa hoàn toàn tỉnh lại, mấy người bọn thuộc hạ đoán rằng khi chúa thượng lớn lên, năng lực và ký ức sẽ từ từ trở về. Nên trước khi thời điểm đó đến, chức trách của bọn thuộc hạ là bảo vệ và dạy dỗ chúa thượng.”
Đường Mật biết mình không thể nhanh chóng biết được bí mật quan trọng của Xích Ngọc cung, tâm tư xoay chuyển, hỏi: “Cũng được, chỉ là ta còn muốn tu luyện ở Ngự Kiếm đường, biết mình biết người vẫn hơn.”
“Tất nhiên, chúa thượng có cơ duyên này, học được bản lĩnh hai nhà đương nhiên tốt đẹp.” Đông Ngao đáp.
“Nhưng ta lo rằng dù các bằng hữu không tiết lộ việc ta là Ma vương thì thiên hạ không có chuyện gì giấu được mãi, vạn nhất lộ phong thanh, người Thục Sơn biết thân phận của ta thì phải làm sao?” Đường Mật lo lắng.
“Việc đó xin chúa thượng yên tâm, dù ở đó cũng có người bảo vệ an toàn cho chúa thượng.” Hoàng Bộ Ngang đáp. Đường Mật giật mình, biết việc này lại do mình tìm ra, quả nhiên Thục Sơn có người của Ma cung cài vào.
Đường Mật cho rằng thân phận của mình hiện tại cũng như nữ hoàng Anh, địa vị rất cao, được tôn sùng nhưng thực ra không có quyền quyết định việc gì, quyền lợi chân chính của Xích Ngọc cung vẫn nằm trong tay vị cung chủ chưa xuất hiện.
Việc này với nó vừa tốt vừa xấu.
Mặt tốt là nó không cần làm việc gì trái với lương tâm, lúc quyết định giả làm Ma vương, lo lắng nhất của nó là sẽ giống với tiểu thuyết võ hiệp, người Ma cung sẽ hỏi nó có nên giết ai đó hay diệt môn phái nào đó. Nó nghĩ vạn nhất gặp phải việc đó thì sao? Lẽ nào mồm năm miệng mười thuyết phục họ nên dĩ hòa vi quý, hoặc dùng đạo lý giảng giải cho chúng nhân rằng nhúng chân vào hắc đạo thì không có tiền đồ, ngay cả đảng Bàn tay đen ở Ý còn đang cố gắng tẩy sạch, hà huống họ vẫn chưa đen hẳn. Không, không thể nào, vạn vạn lần không thể. Thật sự là thế thì Hoàng Bộ Ngang nhất định sẽ hạ cổ độc hoặc thuốc câm biến nó thành con rối chỉ biết gật đầu, mỉm cười.
Mặt xấu là kế hoạch tìm hiểu bí mật của Ma cung đành vứt bỏ, dù nó nghe ngóng từ chính diện hoặc cửa sau thì không ai để lộ nửa điểm về việc Xích Ngọc cung cài cắm ai vào Thục Sơn, đừng nói gì đến kế hoạch đối phó Thục Sơn. Ai cũng khách khí, nói với nó rằng đích thân cung chủ sẽ tự cho nó biết, những việc đó chỉ có vị cung chủ chưa lộ mặt rõ nhất. Đường Mật nghi hoặc vạn phần: Vì sao cung chủ này cứ chần chừ chưa xuất hiện? Có phải hoài nghi nó không?
Nó muốn tìm hiểu một việc nữa là Xích Ngọc cung có di vật nào của Hoa Anh và Hoa Tuyền để lại không, hy vọng thông qua đó tìm ra manh mối nào khác chăng. Nhưng trong đại viện tại Hàm Đan thành này, những nơi nó có thể tìm thì đều không thấy gì. Sự thật, theo Đông Ngao nói, hai tỷ muội này khó lòng để lại di vật gì, hơn trăm năm trước, liên quan ba nước do Vương Lẫm dẫn dắt tấn công Triệu cung, các tướng tĩnh định cho một mồi lửa đốt sạch Triệu cung, rồi treo thi thể Hoa Tuyền lên đầu thành, sau đó vì Vương Lẫm ngăn cản nên họ cướp sạch Triệu cung, thi thể Hoa Tuyền cũng mất tích trong lúc hỗn loạn. Về phần Hoa Anh, Sở vương vẫn sủng ái nàng ta đột nhiên ban chết nên những vật phẩm bên mình, thứ gì đáng tiêu hủy thì tiêu hủy, đáng bồi táng thì bồi táng, hiện giờ trừ phi đào mộ của nàng ta ở nước Sở ra thì khó lòng tìm được gì.
Xem ra, kế hoạch thâm nhập hổ huyệt của nó vô tình kéo tất cả vào vòng nguy hiểm, sau cùng vẫn không đạt được gì.
“Mọi người mắng ta đi, muốn ta tạ tội thế nào cũng được.” Đường Mật cúi đầu ủ rũ.
Bạch Chỉ Vi kéo tay nó khuyên: “Đâu đến nỗi thế, ngươi xem bọn ta chẳng phải vân yên lành sao, hơn nữa cũng có thu hoạch đấy chứ.”
“Đúng, chí ít chúng ta cũng biết Thục Sơn chắc chắn có nội ứng của Xích Ngọc cung. Hơn nữa chúng đã có kế hoạch đối phó Thục Sơn. Chỉ cần chúng tin cô nương, ngày tháng còn dài, cô nương sẽ biết được điều muốn biết.” Mộ Dung Phỉ cũng khoan dung.
“Nhưng sắp phải về Thục Sơn rồi, không còn nhiều thời gian nữa.” Đường Mật vẫn ảo não.
“Đừng vội, lần này chẳng phải ngươi quá nóng lòng mới thế sao. Đối phương tốn thời gian như thế để bày mưu, làm gì có chuyện ngươi chỉ tốn chút xíu thời gian là phá được.” Trương Úy cũng nói.
“Đường Mật, ta tìm hiểu được một việc.” Sử Thụy bảo: “Mấy ngày nay ta cố ý kết thân với vài hộ vệ, ngày nào cũng uống rượu đánh bạc với chúng, hôm qua một hộ vệ uống nhiều, nói ta phải đa tạ y vì không có y thì ta không thể trở thành bằng hữu của Ma vương. Ta lựa lời hỏi dò, sau cùng cũng hiểu ra, hóa ra lần trước ở khách sạn tại huyện An Hưng, xa phu bị chúng mua chuộc nên mới đột nhiên đòi đi, vốn chúng sai mấy tên đóng giả xa phu, khi hai cô nương thuê thì chúng đưa đến thôn ở đầu cầu. Không ngờ ta đột nhiên xuất hiện, có tên trong bọn chúng kiến nghị giết ta trên đường về nhà nhưng y sợ nếu hai xa phu đột nhiên biến mất thì sẽ khiến ngươi hoài nghi, nên y ngăn cản. Sau đó chúng đi trước sửa đổi biển chỉ đường nên chúng ta mới đến thôn đầu cầu.”
Đường Mật vui mừng: “Quả nhiên do người Ma cung bày ra. Sử Thụy, ngươi khá lắm, làm rất tốt.”
Sử Thụy được khen đâm ra ngượng ngùng, sờ gáy ấp úng: “Đâu, đâu có, luận võ công ta kém, còn uống rượu, đánh bạc, moi tin tức thì còn được.”
“Đừng nói thế, bọn ta trừ ngươi ra làm gì còn ai có bản lĩnh đó. Đổi lại là ta, tin tức chưa moi được thì đã say khướt rồi, đấy cũng là bản lĩnh.” Trương Úy khen.
Sử Thụy hớn hở, liếc nhìn Bạch Chỉ Vi mà lòng nở hoa, không khiêm tốn nữa, cười ha hả: “Nói cũng đúng.”
Hoàn Lan nói: “Mục đích của Ma cung dễ đoán, chẳng qua nhằm hủy diệt Thục Sơn, có điều họ khẳng định không chỉ muốn giết mỗi Mục điện giám và Mục tông chủ, chúng ta phải nghĩ cách tìm ra mưu đồ của họ.”
Đường Mật gật đầu: “Đúng, tình hình hiện tại thì ta khó mà biết được những việc đó, chúng ta cứ về Thục Sơn xem có manh mối gì để tìm ra nội ứng.”
“Sao lại cho rằng nhất định chỉ có một nội ứng?” Mộ Dung Phỉ hỏi.
Chúng nhân cũng cho rằng có khả năng này, chỉ là tìm được một đã khó, là mấy nội ứng thì thật đau đầu.
“Các ngươi nói xem Thục Sơn thế này thì ai được lợi nhất?” Đường Mật nghĩ hồi lâu rồi hỏi.
“Theo lý, ai thành tông chủ và điện giám mới thì là người được lợi. Nhưng tông chủ Kiếm tông hiện tại do chưởng môn nhân tạm thời kiêm nhiệm, nhân tuyển cho chức điện giám còn chưa rõ, nên cứ chờ đã.” Bạch Chỉ Vi đáp.
“Ừ, trước đây chức tông chủ đều do tiền nhiệm tông chủ tiến cử cùng năm vị trưởng sứ trong tông thương nghị quyết định. Điện giám cũng như vậy, do tiền nhiệm điện giám tiến cử rồi mọi điện phán cùng thương nghị.” Mộ Dung Phỉ nói: “Nhưng tình huống hiện tại thì khẳng định không thể theo cách đó, nếu tông chủ và điện giám mới, mà theo tình hình trước kia không thể trở thành nhân tuyển, thì càng khả nghi.”
“Ta cũng nghĩ thế.” Đường Mật tán đồng: “Chúng ta đợi xem, chưa biết chừng đấy lại là điểm quan trọng.”
Trương Úy hơi nóng lòng: “Ý ngươi là không tìm Ngân Hồ? Lúc Mục điện giám lâm chung chẳng dặn phải để Ngân Hồ làm điện giám là gì?”
“Không, còn phải đi ngay. Chỉ là chúng ta phải cho Ngân Hồ biết mọi chuyện rồi án binh bất động. Để xem ai thò mặt ra.” Đường Mật đáp.
Nghĩ đến cảnh sắp có viện thủ như Ngân Hồ, chúng nhân đều thấy yên lòng hẳn.
Theo tin tức của Ngạn Thượng, Ngân Hồ đến chín phần mười đang ở trong Lôi âm cốc tại Tiểu Trùng sơn ở nước Sở. Ngọn núi này nằm ở bờ một nhánh nhỏ tại thượng du Hàm giang, do mười hai đỉnh tạo thành, mỗi đỉnh không cao lắm nhưng trùng điệp vách đá dài cả trăm dặm, sơn cốc trập trùng, địa hình rất phức tạp.
Đường Mật dựa vào địa đồ đi liền hai ngày mới biết trình độ địa trắc của thế giới này cực kỳ lạc hậu, theo địa đồ thì khó mà tìm được vị trí Lôi âm cốc. Cũng may đó không phải là nơi vắng vẻ quá, vào ngày thứ ba, cả nhóm gặp một người hái thuốc, được người đó chỉ dẫn mới tìm được phương hướng Lôi âm cốc.
Người hái thuốc cũng lấy làm kỳ quái: “Các vị đến Lôi âm cốc làm gì?”
“Bọn tiểu nữ có một vị sư trưởng đó nên đến thăm.” Đường Mật đáp.
Người hái thuốc lấy làm lạ: “Trong Lôi âm cốc sao lại có người cư trú, cách xa lắc đã nghe thấy tiếng sấm ầm ầm, ai mà chịu được?”
“Vì sao lại có tiếng động ầm ầm nhỉ?”
“Không biết, không ai dám đến, ai cũng bảo đó là nơi ở của thượng cổ yêu vật.” Người hái thuốc đáp, giọng nói đượm mùi dọa nạt trẻ con.
Mấy thiếu niên nhìn nhau, phát giác đồng bạn không hề sợ, hiếm khi tâm ý tương thông như thế, gần như đồng thời mỉm cười. Đường Mật nói: “Đi, xem yêu quái.”
Cả nhóm đi một ngày mới đến cốc khẩu nằm giữa hai ngọn núi, chỉ đủ cho một người đi qua, lại đi chừng một tuần trà giữa khe núi hẹp, bầu trời trên đầu chỉ nhỏ như sợi chỉ đột nhiên rộng mở, hóa ra đã đến một sơn cốc.
Khí hậu trong sơn cốc riêng biệt, ấm áp hơn bên ngoài, hoa cỏ rậm rạp, cảnh tượng như mới đầu hạ. Điểm kỳ quái duy nhất là cây cối không quá dày tán, không gốc cây nào có lá xanh.
Trương Úy gõ gõ gốc cây khô cạnh mình, tiếng bộp bộp vang lên: “Hình như bị sâu đục rỗng rồi.”
Đường Mật hỏi: “Cây gì mà gõ lên nghe như gõ trống nhỉ?”
Cả nhóm quan sát cái cây hồi lâu nhưng không lần ra tên cây là gì.
“Tiếng sấm có phải do những cây này bị gió thổi vào pháp ra? Cốc khẩu ở đây hẹp thế này, thanh âm lồng lộng, nghe khác gì tiếng sấm đâu.” Sử Thụy nói, lại gõ mạnh vào thân cây: “Cốp.” Tiếng động vang lên, một con chim nhỏ nằm trong hốc cây kinh sợ bay lên.
“Sử Thụy, ngươi dọa chim sợ rồi.” Đường Mật ai oán, chưa kịp nhìn rõ hình dáng thì con chim vút vào rừng cây khô như mũi tên rời dây cung.
Sử Thụy định đáp, chợt nghe trong rừng vang lên tiếng sấm, càng lúc càng lớn, tựa hồ có vô số mặt trống cùng gõ, thoáng sau biến thành tiếng ầm ầm khắp sơn cốc.
Đường Mật bịt tai, gào lên với Sử Thụy: “Ta thấy không phải do gió, chưa biết chừng là con chim đó mổ vào cây, Sử Thụy, ngươi chọc giận chim gõ kiến rồi.” Nhưng dù là gió thổi hay chim mổ vào cây thì cả toán cũng biết được nguyên do của tiếng sấm, tuy nhiên cũng cảm thấy tiếng sấm khó chịu, phảng phất tâm phế đều rúng động, đành bịt tai cùng đi vào khu rừng khô héo.
Đường Mật vừa đi vừa nghe, phát giác “tiếng sấm” không đơn điệu, mà cao cao thấp thấp, dài dài ngắn ngắn, có tiết tấu rõ ràng.
Sáu người lại đi thêm một chốc, khu rừng khô ngày càng dày, Sử Thụy lẩm bẩm: “Sao còn chưa đến, tai sắp long ra rồi.” Tiếng than vừa buột ra thì chìm lấp trong tiếng ầm ầm, thấy chúng nhân không để ý, y định nói thêm một câu, ai ngờ mới mở miệng thì cổ họng mặn chát, phun ra một ngụm máu.
Trương Úy đi trước mặt y, chợt cảm thấy cổ nóng lên, đưa tay sờ thì thấy dinh dính, mùi tanh xộc vào mũi, kinh hãi ngoái lại nhìn. Sử Thụy đang bịt mồm, kinh hãi nhìn gã, máu theo kẽ ngón tay chảy ra, thấm ướt nửa tay áo.
Trương Úy đến trước mặt Sử Thụy, thò tay bắt mạch: “Thế nào, khó chịu ở đâu?”
Trong cuộc đời chưa dài lắm của Sử Thụy, y chưa từng bao giờ thổ huyết, nhất thời không biết hình dung thế nào, tựa hồ không chỗ nào quá khó chịu nhưng toàn thân lại không khỏe lắm, liền nói cho qua: “Không rõ, không đau chỗ nào nhưng trong lòng khó chịu.”
Trương Úy cảm nhận được nội tức của y hơi hỗn loạn, có vẻ bị nội thương: “Hình như thụ nội thương, ai đả thương ngươi? Bắt đầu khó chịu từ lúc nào?”
Cảm giác khó chịu trong lòng Sử Thụy ngày một rõ ràng, nhưng không đến mức không chịu nổi, không hiểu sao lại nghiêm trọng đến mức thổ huyết, y thoáng nghĩ rồi đáp: “Lúc mới nghe âm thanh thấy hơi khó chịu nhưng ta cho rằng ai nghe tiếng động lớn thế cũng đều khó chịu nên không để ý.”
Kỳ thật Trương Úy cũng thấy khó chịu, cũng cho rằng âm thanh quá lớn, giờ nghe Sử Thụy nói vậy liền kéo y ngồi xuống điều tức. Gã tuần hoàn nội tức liên tục, chừng một tuần trà sau thì cảm giác đó tan biến, tiếng động tuy không giảm nhưng tâm không còn bức bối nữa, gã hỏi Sử Thụy: “Ngươi thấy thế nào?”
“Tựa hồ ổn rồi, sao thế nhỉ?” Sử Thụy hỏi xong, cũng hiểu ra đôi phần, tự đáp: “Âm thanh đó khuấy loạn nội tức của ta, đúng thế.”
“Ta nhớ điện phán từng bảo Thanh Nguyên tự có môn võ công là Phật âm bổng hát dùng thanh âm chế ngự địch, trên giang hồ cũng có cao thủ đủ khả năng dùng âm thanh đả thương người. Tiếng động này có lẽ cũng như thế.” Trương Úy đáp.
“Nhưng vì sao tất cả nghe thấy lúc đầu lại không sao?” Sử Thụy hỏi tiếp.
Trương Úy ngẫm nghĩ một chút: “Có lẽ sức mạnh nhiễu loạn nội tức của thanh âm này không mạnh, chỉ ta chỉ thấy hơi khó chịu nên không để ý. Nếu cũng mạnh mẽ như nội lực khi cao thủ xuất chưởng thì võ công cỡ Hoàn Lan tất đã nhận ra.”
Sử Thụy ngượng ngùng: “Vì võ công của ta quá kém nên mới không chịu được, bất quá lúc ta mới vào rừng, cảm giác khó chịu tăng dần.”
Trương Úy cũng có cùng cảm giác, mơ hồ hiểu được có điểm bất thường: “Ta cũng thấy cổ quái, nhưng không nói rõ ra được, chúng ta gọi mọi người lui đi đã.”
Nhưng lúc đó bọn Đường Mật đã đi mất bóng, Trương Úy và Sử Thụy không hiểu vì hai gã đi cuối, cộng thêm tứ phía toàn âm thanh nên không chú ý đến người khác hay còn nguyên nhân nào nữa mà mấy người kia không hề nhận ra hai gã đã lạc.
Trương Úy càng lúc càng bất an: “Sử Thụy, ngươi mau rời khỏi cốc, tìm chỗ nào âm thanh nhỏ mà vận khí điều tức, ta đi tìm họ.” Sắc mặt gã cho Sử Thụy biết sự tình không đơn giản, biết mình có đi cũng chỉ loạn thêm, liền đáp: “Được, không cần lo lắng, mau đi đi.”
Trương Úy đi vào trong rừng tìm kiếm, vừa tìm vừa dùng nội lực chống lại âm thanh, nhận ra nội lực của gã cứ giữ nguyên, cũng có nghĩa là sức mạnh của tiếng sấm không hề tăng thêm, không hiểu sao lúc đầu Sử Thụy chịu được mà sau đó lại thổ huyết nhỉ? Gã đang tự hỏi chợt nhớ ra Đường Mật từng kể cho mình nghe chuyện luộc ếch, đại ý là cho con ếch vào nước sôi, nó sẽ nhảy ra ngay nhưng nếu cho vào nước lạnh rồi tăng nhiệt từ từ thì con ếch sẽ chết trong nồi nước. Lúc đó Đường Mật bảo: “Kỳ thật nhiều người và quốc gia đều bại vong vì chính nguyên nhân này, đột nhiên có thiên tai thì sẽ dấy lên sức mạnh cầu sinh, nghiến răng chống chọi qua được. Ngược lại, gặp phải thứ gì đó từ từ xâm lấn và tổn hại, đến khi ngươi cảm thấy không chịu được nữa thì đã quá muộn mất rồi.” Gã cảm thấy chuyện này rất hợp lý, khiến lòng người ta được khai khiếu, giờ bên tai vang lên tiếng sấm ầm ầm thì chợt tỉnh ngộ: Hỏng rồi, lẽ nào họ cũng biến thành ếch.
Gã lập tức hiểu vì sao Sử Thụy thổ huyết, bởi âm thanh đó từ từ tổn hại đến tâm mạch, nội lực Sử Thụy không cao nên không lâu sau đã xảy ra chuyện, còn gã và những người khác công lực cao hơn nên không thấy gì, nhưng cứ đi tiếp thế nào cũng bất tri bất giác bị trọng thương.
Gã lo lắng vạn phần, biết rằng âm thành này chuyên đối phó với cao thủ, như Sử Thụy thì đi chưa bao lâu đã phát hiện có chuyện nên lui nhanh, còn cao thủ nhất định sẽ vào sâu trong rừng với rút lui thì đã muộn. Gã không hiểu võ công của Hoàn Lan và Mộ Dung Phỉ thì đi đến đâu mới bị trọng thương, nhất định sớm tìm được họ vẫn hơn.
Càng khiến gã lo lắng là Trầm Phong bắt đầu xáo động, kiếm hồn tất nhiên không thể bị thanh âm gây thương tổn, thật ra là chuyện gì? Gã không kịp nghĩ thông, đã nhấc chân chạy vào trong rừng.
Ban đầu gã đi trong rừng còn có thể vận công đối kháng, vừa chạy nhanh thì không thể chia nội lực ra làm đôi để vừa thi triển khinh công vừa chống lại âm thanh. Gã nghiến răng mặc kệ âm thanh tác động, dốc mười thành công lực vào hai chân.
Gã cảm giác rõ ràng sức mạnh của Trầm Phong dồn lên mình, cũng như lúc trong Đào hoa chướng, phảng phất có một mũi dùi đâm vào bức tường thép bao quanh tâm linh. Lẽ nào âm thanh này cũng như hoa đào, có thể gọi được kiếm hồn chi lực, óc gã vừa dấy lên ý nghĩ này thì thấy bốn người bọn Đường Mật đang đi tới.
“Đường Mật, sao các ngươi đã về rồi, để ta tìm.” Trương Úy bước ra hỏi.
Ai ngờ bốn người như thể không thấy gã, ánh mắt trống rỗng nhìn thẳng, tiếp tục cất bước. Gã từng thấy tình cảnh này trong Đào hoa chướng, lúc đó mọi kiếm đồng đều làm theo ý mình, không ai để ý đến gã. Lẽ nào họ cũng bị khốn trong ảo ảnh? Gã chợt thấy kiếm hồn chi lực tăng hẳn, đau đớn đến độ trán toát mồ hôi lạnh.
Xưa nay gã chỉ biết ảo ảnh là pháp thuật mê hoặc nhãn tình rồi tiến tới mê hoặc tâm linh, không ngờ âm thanh cũng có thể, gã cuống lên không biết cách phá giải thế nào. Trầm Phong ngày càng náo động, như thể đang gầm gào trong bao, nhất thời gã không biết làm thế nào, đi sau bọn Đường Mật gọi loạn xạ: “Đường Mật, nghe thấy không, tỉnh lại đi.”
Bọn Đường Mật vẫn thản nhiên đi tiếp. Lúc đó Trương Úy đã hiểu rõ toàn bộ uy lực của âm thanh, có thể khiến cao thủ từ từ thụ thương rồi đẩy họ sa vào ảo ảnh. Cứ thế thì dù thương tổn của ảo ảnh gây cho tâm mạch không nặng nhưng cao thủ bị khốn mấy canh giờ liền, bị thương nặng sẽ khó lòng thoát thân. Tuy gã biết mình không bị ảo ảnh mê hoặc, có thể vì sức mạnh của người tạo ra ảo ảnh không cao, nhưng hiện tại kiếm hồn của gã đang báo động như lúc ở Đào hoa chướng, khó dám chắc kiếm của bốn người kia không như thế. Gã không biết ngũ kiếm hợp lực sẽ tạo ra được ảo ảnh cỡ nào, rồi bản thân cũng bị mê hoặc thì thật sự không thể cứu được nữa.
Gã càng nghĩ càng lo lắng, cơn đau trong tâm dồn dập từng hồi, thân thể run lên vì không chịu nổi, cộng thêm gã không chống cự lại thanh âm, tâm mạch dĩ nhiên tổn hại, trước mắt chợt tối sầm rồi ngã xuống.
Ngay sát na thân thể sắp ngã xuống đất, gã bạt trường kiếm chống xuống, thân hình lăng không lượn vòng, đáp xuống đất yên ổn, múa kiếm như lúc ở trong Đào hoa chướng. Nhất thời kiếm khí ràn rạt, kiếm phong ngang dọc.
Khu rừng khá rậm rạp, gã không để ý một chốc, Trầm Phong đã chém gục một gốc cây khô, một con chim từ trong hốc cây bay lên. Gã vốn không để tâm, chém gục một gốc cây nữa, lại có một con chim từ hốc cây bay ra.
Gã đâm ra nghi hoặc, sao mỗi gốc cây lại có một con chim? Trựa giác cho gã biết có chuyện bất thường, liền dừng múa kiếm, chém gục liên tục hai gốc nữa, vẫn có chim ẩn mình trong hốc. Gã nhớ lại lúc vào rừng Đường Mật bảo tiếng động xuất hiện là do chim mổ vào thân cây, lập tức gã thông suốt. Vốn gã không hiểu tiếng động sao cứ luẩn quẩn tứ phía, hóa ra là trong hốc cây có chim mổ vào.
Nhưng làm cách nào trừ bỏ được âm thanh? Gã cho rằng tìm được nguồn gốc âm thanh cũng vô dụng, ở đây cả rừng toàn cây khô, lẽ nào phải chặt sạch? Gã là người đầu óc đơn giản, không nghĩ được cách gì hay hơn liền nghiến răng vung kiếm chém tứ phía.
Múa kiếm lên, cảm giác kiếm hồn chi lực cắn xé bản thân liền biến mất dần, múa càng lâu thì gã càng nhận ra tuy tâm lực chỉ có một chút đó nhưng vì kiếm hồn quá sống động nên nảy sinh cảm giác kỳ diệu dùng tâm khống chế kiếm. Gã quên cả chém cây, cứ thoải mái vung kiếm trong rừng, bộ pháp dần biến thành Ma La vũ, nhát kiếm chém ra, kiếm khí vô hình như thể sợi dây tơ ẩn tàng trong ánh sáng, từ từ lan ra, đi qua chỗ nào là cành cây lay động, thân cây run lên, những gốc không chắc đều bị kiếm khí chặt đứt, đổ xuống ầm ầm.
Gã hớn hở, chém cách này nhanh hơn ban nãy ba lần, không lâu sau, trong vòng năm trượng quanh gã có quá nửa số cây bị hủy, tuy tiếng động vẫn còn nhưng gã không thấy ở sát cạnh mình nữa. Gã biết mình tìm đúng thủ phạm, đã không tìm được cách nào hay hơn thì cứ liều mạng hủy cây thôi.
Gã đề khí, cảm giác nội tức thoáng bất ổn, biết tâm mạch bị thương nặng hơn, nhưng lúc đó không thể cả nghĩ nữa, vung kiếm lao đến một vạt cây. Lúc vung kiếm lên, chợt vang vang tiếng địch du dương, chỉ tiếng địch thôi nhưng vang lên rõ rệt trong mớ tiếng sấm ì ùng.
Gã nhận ra tiếng địch không dễ nghe, cao cao thấp thấp kỳ quái khó tả, tựa hồ có thể xung kích tâm mạch như tiếng sấm, gã vừa múa kiếm vừa cảm giác một luồng sức mạnh khác ập tới. Lòng gã thắt lại, không hiểu tiếng địch là bạn hay thù, cứ vận đủ sức mạnh lên đối kháng. Khoảnh khắc đó, sức mạnh của gã, của kiếm hồn, của tiếng địch và tiếng sầm đồng thời dồn lên tâm mạch gã vốn đã thương tổn. Gã đau lớn kêu lên thê thảm, tay lỏng ra, trường kiếm rơi xuống.
Có thứ gì đó nát vụn, trước khi mất đi ý thức gã nghĩ thế, tựa hồ là tâm của gã. Lúc Trương Úy tỉnh lại, thứ đập vào mắt đầu tiên là mấy gương mặt quen thuộc của Đường Mật, Bạch Chỉ Vi, Mộ Dung Phỉ, Hoàn Lan và Sử Thụy. Tuy gã chưa hiểu rõ tình hình nhưng bạn bè đều ở đây, lòng yên tĩnh hẳn, hít sâu một hơi hỏi: “Sao rồi, các ngươi đều ổn chứ?”
“Bọn ta vẫn ổn, ngươi sao rồi?” Đường Mật thấy lúc gã nói, trung khí đầy đủ, biết gã không sao, lấy làm vui mừng hỏi.
“Tâm mạch bị Thiên âm chướng thương tổn, vận công điều tức một ngày là khỏe.”
Trương Úy nghe thấy giọng nói mười phần thân thuộc, liền vượt qua thân ảnh mấy đồng bạn, thấy một người đang ngồi trên ghế cách đó không xa. Mái tóc người này bạc trắng rủ xuống vai, gương mặt vẫn trẻ trung, khóe mắt hơi nheo lại, tựa như cười tựa như không, chính là Ngân Hồ Tạ Thượng mà bọn gã đang tìm.
“Tạ đại ca quả nhiên ở đây.” Gã lên tiếng, lòng thầm hoan hỉ, lục tục bò dậy, không ngờ vì mới bị thương nên vừa nhỏm dậy, khí xuyết xông lên, lòng chợt trống rỗng đầy cổ quái, cũng may hàng ngày gã khổ luyện võ công, hạ bàn căn cơ chắc chắn, thân hình không hề lay động, chúng nhân cũng không nhận ra.
“Thôi, vì tiếng gọi đại ca này, ta không tính toán với đệ nữa, đệ hủy mất của ta một khoảnh lớn Thiên âm lâm.” Tạ Thượng nói, “xưa nay người ta vào rừng, phát hiện bị khốn thì đều tìm cách phá trận chứ có ai như tiểu tử ngốc, vung kiếm chém cây.”
Trương Úy cười ngượng ngùng.
Trừ Đường Mật và Bạch Chỉ Vi, còn lại đều không hiểu vì sao Ngân Hồ Tạ Thượng đủ vai vế là lão tiền bối lại xưng huynh gọi đệ với Trương Úy, nhìn một già một trẻ với vẻ nghi hoặc. Trương Úy xưa nay vẫn trì độn với ánh mắt của người khác còn Tạ Thượng từ bé đã đầu tóc bạc phơ, quan bị chỉ chỉ trỏ trỏ nên tạo thành tính cách coi ánh mắt người đời là không khí, thành ra cả hai trò chuyện đầy tâm đắc.
“Tạ đại ca nói đến Thiên âm lâm là khu rừng cây khô hả? Chim chóc ở đó cổ quái thật, vì sao lại gõ vào cây phát ra tiếng ầm ầm? Còn nữa, vì sao tiếng động có thể đả thương tâm mạch người ta, lại tạo ra được ảo ảnh?” Trương Úy hỏi.
“Tiếng gõ vào cây nghe như trống trời nên được gọi là Thiên âm thụ, còn Thiên âm điểu này là loại chim cộng sinh với cây, vốn mười phần yếu ớt, không có sức chống lại ngoại địch, một khi thấy ngoại địch, Thiên âm điểu cảm giác được nguy hiểm liền trốn vào hốc cây, mổ mạnh vào vỏ tạo thành âm thanh inh tai đuổi địch nhân đi. Còn về việc âm thanh này thương tổn đến tâm mạch thì chắc các điện phán đã dạy, lúc huynh mới đến đây, thấy âm thanh này có thể từ từ gây thương tổn cho con người, có thể dùng làm lớp phòng ngự địch nhân. Chỉ là công lực của âm thanh này không mạnh, nếu cao thủ thật sự đến sẽ an toàn đi qua được khu rừng, nên huynh khoét thêm nhiều hốc cây, một khi Thiên âm thụ phát ra thanh điệu sẽ biến đổi, tạo thành ảo ảnh vây khốn địch nhân.” Tạ Thượng giải thích.
Trương Úy có phần không hiểu: “Tạ đại ca ở trong đó không thấy ồn sao?”
Tạ Thượng nói: “Không hẳn, Thiên âm điểu không mổ vào cây khi không gặp địch nhân, vạn nhất có dã thú tiến vào thì Thiên âm điểu khẽ mổ, ta thổi địch là dỗ được chúng.”
Vừa hay một con Thiên âm điểu bay đến, chúng nhân phát hiện thân thể nó nhỏ xíu, không lớn hơn ngón cái nam tử trưởng thành bao nhiêu, lông màu đen nhạt không có gì bắt mắt nhưng lại là loài chim có thể tạo thành đại trận giết người.
“Thật không ngờ thứ này khiến bọn muội suýt nữa mất mạng ở đó.” Đường Mật than.
“Đúng, ngàn vạn lần đừng nên coi thường kẻ yếu, chỉ cần họ tích tụ sức mạnh, sẽ tạo thành phản kích kinh hồn.” Tạ Thượng nói.
Đường Mật nhớ ra, Tạ Thượng và Trương Úy tuy coi là quen nhau, không đến nỗi vì bí mật phòng ngự của nơi ẩn cư mà coi như không quen, tâm niệm chợt động: “Tạ đại ca không định ở đây nữa hả?”
Tạ Thượng nhìn Đường Mật và Bạch Chỉ Vi, biết hai tiểu cô nương này đều rất thông minh, bằng không năm trước y đã không tắc tị với cả hai, vì thế mà y vốn thích Trương Úy hơn hai cô, giờ thấy Đường Mật nói đúng liền hơi nhíu mày: “Đúng vậy, các vị đến vừa hay, vốn chỉ mấy ngày nữa là ta sẽ đi.”
“Tạ đại ca định đi đâu?” Trương Úy hỏi.
“Về Ngự Kiếm đường, ta nhận được tin từ Thục Sơn là Mục Hiển đã khứ thế, họ không tìm được người kế nhiệm, mời ta xuất sơn.” Tạ Thượng mỉm cười, xem ra không để tâm lắm đến danh hiệu điện giám Ngự Kiếm đường được người đời tôn kính, khẩu khí tỏ vẻ khó xử. Đường Mật đâm ra cảnh giác, theo ý thức nhìn những người khác, họ cũng đang nhìn nó, tất cả hiểu nhau nên không nói gì nữa.
Trương Úy cũng ngẩn người, trong óc loáng qua ý kiến từ rút ra từ phân tích hôm trước rằng ai đăng lên ngôi tông chủ hoặc điện giám đều đáng hoài nghi, nhưng gã không muốn Tạ Thượng liên quan đến chuyện này, vội hỏi: “Tạ đại ca năm xưa đã từ nhiệm chưởng môn để quy ẩn, chắc không thích việc thế tục bận rộn, lẽ nào lại chịu xuất sơn?”
Đường Mật nói: “Đúng, kỳ thật mấy người bọn muội cũng muốn xin Tạ đại ca xuất sơn, lúc Mục điện giám lâm chung có dặn thế nhưng dọc đường bọn muội đều cho rằng đại ca sẽ cự tuyệt.”
Tạ Thượng tựa hồ không muốn trả lời, đáp hàm hồ: “Ta có nguyên nhân riêng, sau này hẵng nói.” Đoạn chuyển sang chủ đề khác, hỏi Trương Úy: “Trương Úy, sao đệ lại biết nửa pho Ma La vũ?”
Trương Úy không hiểu ‘nửa pho Ma La vũ’ là gì, giải thích đơn giản việc học được rồi hỏi: “Tạ đại ca muốn nói rằng Ma La vũ bọn đệ thấy trong đèn chỉ là một nửa pho võ công nào?”
Tạ Thượng đáp: “Có thể nói thế, Ma La vũ là võ công Ma vương sáng tạo ra khi tỷ võ với Đọa Thiên đại nhân, đại nhận cực kỳ tán thưởng pho võ công này, lại được gợi hứng nên sáng tạo ra một pho phối hợp với Ma La vũ. Nhưng đại nhân không đặt tên cho bộ pháp mới bởi hoàn toàn thoát thai từ Ma La vũ của Ma vương, cũng như nửa thân thể khác của một người. Gọi nó là Ma La vũ luôn cũng được.” Ngữ khí Tạ Thượng tỏ vẻ coi thường: “Chỉ là người Thục Sơn chúng ta lại kỵ húy cái tên này vì cho rằng Ma la là chướng ngại ngăn cản người ta thành phật, người khai sáng Thục Sơn sao có thể sáng tạo ra võ công này. Đâu ngờ những nhân vật năm xưa đâu có nhỏ nhen như thế, họ mới là những nhân vật phong lưu chân chính.”
“Đúng, nếu lúc tỷ võ hai người đó thi triển cả hai pho Ma La vũ thì quả thật thiên y vô phùng, tuyệt thế phong tư đến mức nào nhỉ?” Đường Mật cảm thán.
Nhắc đến việc này, Tạ Thượng rất có hứng, tiếp tục nói: “Ma La vũ trừ bộ pháp khinh linh phiêu dật, lại không tiêu hao nhiều nội lực ra thì còn một nguyên nhân nữa mà được gọi là Ma La vũ. Các vị có nhận ra rằng trong những lúc khẩn cấp, bộ pháp sẽ tự động chuyển thành Ma La vũ không? Còn nữa, dù sử dụng võ công gì, Ma La vũ đều có thể tương thích.”
Trương Úy nhận ra quả nhiên như thế. Ví như lúc nãy, vốn gã định dùng võ công Thục Sơn, sau đó chặt nhiều cây, lòng cuống lên, kiếm vung càng lúc càng nhanh, bộ pháp liền biến đổi.
“Đúng vậy, sao lại thế nhỉ?” Gã hỏi.
“Việc đó thì huynh đã nghĩ kỳ rồi, thứ nhất vì không cần nhiều nội lực, mỗi khi khẩn yếu, chúng ta thường tập trung nội lực lên tay, người biết Ma La vũ tất nhiên sẽ chuyển bộ pháp sang. Thứ hai, thoạt nhìn thì phức tạp nhưng mỗi nước của Ma La vũ cực kỳ đơn giản, không xung đột với bất kỳ chiêu thức nào. Con người bị Ma la bất tri bất giác mê hoặc, đặt cái tên này cũng vì nó vô tình len lỏi vào võ công bản môn, dung hợp thành một thể.” Tạ Thượng không hề cố kỵ gì, cảm thán trước mặt mấy hài tử: “Ma vương đích xác tài hoa, dù ở vị trí đối địch cũng phải khâm phục nàng ta.”
Mấy thiếu niên nhìn nhau, Đường Mật cố ý hỏi: “Tức là Tạ đại ca cũng biết Ma La vũ?”
Kỳ thật đó cũng là nghi vấn trong lòng chúng nhân, ai cũng cho rằng Tạ Thượng dù biết cũng sẽ nói là không, chỉ có Đường Mật hiểu y vô cùng tự thị, chưa biết chừng sẽ không che giấu, quả nhiên y đáp: “Tất nhiên biết chứ, lúc Đọa Thiên đại nhân khứ thế có viết một bức thư cho chưởng môn, điện giám Ngự Kiếm đường cùng các vị tông chủ, trong đó để lại cho chưởng môn và điện giám mỗi người một bộ võ công bí tịch nhằm khống chế lẫn nhau, gộp hai pho lại là Ma La vũ hoàn chỉnh duy nhất trên đời.” Nghe đến đây, ngay cả đầu có chậm chạp như Trương Úy cũng hiểu nếu Tạ Thượng tiếp nhiệm chức điện giám thì y là người đầu tiên sau hơn trăm năm được đọc đầy đủ hai bản bí tịch. Gã không giỏi che giấu, vừa nghĩ thế, ánh mắt nhìn Tạ Thượng liền thay đổi.
Tạ Thượng linh mẫn cực độ, nhận ra thần sắc gã biến đổi. Giang hồ xưng tụng y là Ngân Hồ, không chỉ vì mái tóc sinh ra đã bạc trắng mà vì y thông minh, võ công tu vi cực cao, trú nhan thuật hơn người, như thể hồ tiên bất tử. Cũng may y biết Trương Úy tính tình đơn thuần, không bao giờ suy nghĩ theo hướng phức tạp, hiểu gã không chấp nhận được việc chưởng môn Thục Sơn cũng biết Ma La vũ, liền cười: “Thế thì sao, võ công thôi mà, tên có tà một chút thì Đọa Thiên đại nhân cũng không quan tâm.”
Đường Mật đại khái đoán ra vì sao sắc mặt Trương Úy biến đổi, sợ gã lỡ lời liền xoa dịu: “Đúng, cũng không sao hết.”
Khi Tạ Thượng đi rồi, mấy đứa chụm lại thương lượng, đều thấy rằng không nên hoài nghi Ngân Hồ nhưng tình hình này cần phải cẩn thận, ít nhất trước khi tìm rõ chứng cớ chứng minh Tạ Thượng không liên quan gì đến việc này thì không thể nói gì nhiều. Đặc biệt họ biết có thể Ngọc Diện bị một người biết Ma La vũ hại thì càng phải phòng bị.
Thương nghị xong xuôi, mấy thiếu niên nhìn nhau, chợt nhận ra giờ chỉ có mấy đưa dám hoàn toàn yên tâm tin tưởng nhau. Ngoài trời, màn đêm đã buông xuống tự khi nào, bóng tối đen thẫm như mực len qua khe cửa vào trong nhà, từ từ xâm lấn ánh nến leo lét. Đường Mật nhìn những gương mặt thiếu niên quanh mình, ánh nến chao chát trên từng gương mặt ngây thơ, lòng nó ấm lại: “Kỳ thật cũng chẳng sao hết, có mọi người là đủ rồi.” Các thiếu niên từ biệt Tạ Thượng rồi về Thục Sơn, dọc đường cười nói trò chuyện rất vui vẻ. Điều khiến tất cả đều cao hứng là Đường Mật sau rốt cũng hoàn toàn khôi phục lại dáng vẻ trước kia, ánh mắt không còn nóng lòng mà lấp lánh sáng rực.
Nó thích gọi Hoàn Lan là Tiểu Thúy rồi nói với thiếu niên đang xanh lét mặt mày: “Ngươi xem này, mặt mũi xanh thế kia, đúng là danh phù kỳ thực.” Mỗi lần như thế, Hoàn Lan lại giãn mặt mũi ra, bật cười giơ cờ trắng đầu hàng.
Nó cũng hay giả theo cử chỉ lịch lãm của Mộ Dung Phỉ ra rồi nói với y đầy thành thật: “Phỉ quân cư xử gần như hoàn hảo, chỉ có một điểm không ổn khiến người ta cảm thán sao tường trắng lại có vết than.”
Mộ Dung Phỉ cười hỏi: “Chỗ nào?”
Nó đưa tay áo che kín nửa mặt, đôi mắt tròn to long lanh chợt hấp háy: “Cười không hở răng, Tiểu Hồng cô nương.”
Tất nhiên nó thích nhất là cùng Bạch Chỉ Vi trêu Trương Úy, có mặt gã là nó giả đò gục đầu lên vai Bạch Chỉ Vi tỉ tê khóc: “Tức chết mất, ban nay ta nghe mấy tiểu nha đầu ở khách sạn nói ta là loại nhà quê không cha không mẹ, lấy đâu ra đại tiểu thư không có nha đầu đi theo hầu hạ. Chỉ Vi, ta nhớ cha mẹ lắm, nếu họ vẫn còn thì ta sẵn sàng phản ứng nhưng hiện giờ chỉ biết nuốt giận.”
Bạch Chỉ Vi ra vẻ đồng tình, an ủi: “Đừng giận, chi bằng sau này ta giả làm nha hoàn của ngươi.”
Nó lắc đầu: “Ngươi là thiên kim đại tiểu thư, bảo ngươi bưng nước rót trà mà làm giống mới là lạ. Người ta còn bảo lấy đâu ra loại tiểu thư mà nha hoàn còn có thần khí hơn chủ.”
Trương Úy nghe thấy, trong lòng bất nhẫn: “Đường Mật, hay là ta giả thành đầy tớ của ngươi?”
Nó giả đò lau nước mắt: “Không được, có tiểu thư nào ra khỏi nhà lại mang theo đầy tớ, ngươi phải giả làm nha hoàn.”
Trương Úy nghiến răng: “Được.”
Nó tức thì hớn hở: “Đồng ý rồi không được nuốt lời nhé, Như Hoa.”
Nhưng chỉ Đường Mật biết, càng gần Thục Sơn, nó càng bất an.
Lúc không có ai, nó liên tục móc chìa khóa Mục Hiển để lại ra nắm trong tay, hồi lâu sau mở tay ra, chìa hóa hằn vết lên lòng tay đỏ ửng. Nó dùng ngón trỏ tay kia khẽ vuốt dấu đỏ, không cảm thấy đau mà lòng yên tĩnh lại, biết dù thế nào thì nó cũng nắm trong tay một manh mối hữu dụng.
Nó chỉ không nghĩ thấu là chiếc chìa khóa này mở được vật gì. Theo tình hình lúc đó, Lý Liệt không hề lục lọi khi giết Mục Hiển, cũng có nghĩa rằng đối phương không cần hoặc chí ít không vội lấy được thứ Mục Hiển nắm trong tay. Phía sau chiếc chìa khóa này ẩn tàng điều gì có thể giúp nó giải được câu đố trước khi chết, Mục Hiển định làm gì?
Cuối tháng cả nhóm mới về đến Ngự Kiếm đường. Đại đa số kiếm đồng cũng đã tề tụ. Đường Mật theo chúng nhân đặt chân lên cửa chính Ngự Kiếm đường, trước mắt là một rừng màu trắng. Tuy dọc đường đã biết phải đối diện với sự thật nhưng khí nhìn thấy pha trắng tung bay chiêu hồn cho người chết vì sai lầm của nó, lòng nó lại hối hận khôn nguôi, cúi đầu tránh màu trắng sắc lẹm dưới ánh nắng xuân, mím môi đi về phòng.
Bạch Chỉ Vi nhận ra điều dị thường, đuổi theo nắm tay nó, cũng không nói gì, cùng về Mai uyển.
Trước táng lễ mấy ngày, Ngự Kiếm đường chìm trong không khí bi thương tất bật. Các kiếm đồng đều không cười nói, nhân sĩ võ lâm đến bái tế rất đông, mỗi kiếm đồng đều được giao một việc, ai nấy đều lo hoàn thành việc của mình, gặp nhau cũng chỉ chào sơ qua rồi đi tiếp. Tất cả kiếm đồng đều mặc áo vải gai trắng, càng khiến Đường Mật chìm trong biển màu trắng, có lúc nó đột nhiên thấy nghẹt thở, cơ hồ ngập trong thủy triều đau thương.
Mục Hiển trú trong một tòa viện đơn độc ở phía đông Ngự Kiếm đường. Từ lúc về, nó lén đến một lần, dùng chìa khó mở cửa, trong phòng trần thiết đơn giản, mấy tháng rồi không ai quét dọn, dưới ánh trắng xám bạc thì như phủ lên một lớp tuyết mỏng. Nó tìm kỹ mấy lần mà không thấy vật gì đáng chú ý.
Hôm sau, nó gặp Mộ Dung Trinh Lộ phu trách việc táng lễ, cố ra vẻ tùy ý nói là Ngân Hồ sẽ về, không hiểu nơi ở đã thu dọn chưa. Mộ Dung Trinh Lộ lúc đó mới nhớ ra: “Ờ, bận quá nên ta quên mất, Đường Mật, muội đi tìm mấy tạp dịch quét dọn qua loa đi. Nghe nói trên mình Mục điện giám không mang theo chìa khóa, đi tìm Chúc Ninh nghĩ cách mở ra.”
“Lúc đó muội nhặt được vật này trên bãi cỏ, có phải không?” Đường Mật lấy ra hỏi.
Mộ Dung Trinh Lộ liếc nhìn: “Không biết, muội thử đi, đúng thì mau quét dọn, ngày mai Ngân Hồ sẽ tới.” Đoạn vội vàng đi mất.
Như thế, nó chính đại quang minh ra vào chỗ Mục Hiển ở ngay giữa ban ngày ban mặt.
Nhưng dù ban ngày ban mặt nó cũng không tìm thấy gì, bất quá nó quen thuộc cơ quan, gõ gõ mọi chỗ xong cảm thấy phía sau giá sách là nơi dễ có cửa ngầm nhất. Giá sách chất đầy, nếu cũng như ngăn kéo ở thực đường, phải đổi vị trí từng ngăn mới mở được cơ quan thì thật sự phiền hà, nó cũng lay lay từng quyển sách mà không thấy cơ uan gì. Nó chợt nghi hoặc, không hiểu Mục Hiển bảo mình đến đây tìm thứ gì.
Nó cầm chìa khóa lên nghịch, nhớ ra Mộ Dung Trinh Lộ bảo mình đi mở khóa, hình như có điểm bất thường, chìa khóa này chỉ làm bằng đồng thông thường, muốn mở loại khóa kiểu này không khó khăn gì, Mục Hiển dùng để khóa những thứ quan trọng thì hơi bất cẩn.
Chìa nếu không hợp với khóa thì còn có tác dụng gì? Đường Mật vừa nghĩ vừa quan sát. Gian phòng này trừ chỗ ngủ và giá sách ra chỉ còn hòm gỗ đàn lớn đựng quần áo và đồ vật linh tinh, nó đã tìm đi tìm lại mấy lần trong đó rồi. Trước giá sách có bày một cái trường kỷ, trên đó trừ bút mực đài nghiên ra không còn gì, bên cạnh là đĩa đèn bằng đồng. Ngọn đèn mang hình dáng người nâng bình nước thường thấy, hai tay giơ lên đỡ lấy thân đèn, giống như hình thiên bình.
Hai từ “thiên bình” lóe qua đầu óc nó, trong lòng sáng lên, chạy đến thử lay động ngọn đèn. Quả nhiên không thể lay động, biết ngay cơ quan ở đó, bèn cho chìa vào đế đèn cao hơn ở bên không có đĩa đèn, đợi một lúc sau mà không thấy động tĩnh gì.
Nó tưởng mình tìm được bí mật mở cơ quan, lợi dụng trọng lượng chìa khóa để đưa “thiên bình” về đúng vị trí, nhưng bây giờ hoàn toàn vô dụng. Nó quan sát đĩa đèn thật kỹ, ánh mắt dừng lại một chút ở đĩa đèn thấp hơn, chợt cầm đế lên, đổ sạch dầu chưa đốt hết đi rồi bỏ chìa khóa vào đế cao hơn, quả nhiên đĩa đèn từ từ dâng lên, đến khi cân bằng với đĩa để chìa khóa thì dừng lại. Rồi tiếng lách cách rất khẽ vang lên, nó quay lại đẩy giá sách, một hốc ngầm xuất hiện.
Hốc ngầm này cực nhỏ, được xây trên tường, bên trong đặt một cái bao vải màu lam, một hộp gỗ nhỏ cũng mấy tờ giấy.
Nó mở bao màu lam ra trước, bên trong đặt một chiếc chìa khóa hình cái lược và hai phong thư. Nó cầm chìa khóa lên, thoạt nhìn là nhận ra để mở địa cung bên dưới chính điện Ngự Kiếm đường. Nó từng nghiên cứu kỹ cái lược tinh thiết của mình, nhận ra răng lược tuy cách nhau không nhiều nhưng mỗi răng đều có khác biệt cực kỳ tinh tế, làm giả không dễ tí nào. Giờ so ra, cái lược của nó nhiều hơn của Mục Hiển mấy răng, hiểu ngay vì sao lão không mở được một số cánh cửa vì những cánh cửa đó cần những răng lược mà chìa khóa của lão thiếu, còn chưởng môn có thể mở được kiếm thất. Còn về ý tưởng của Vương Lẫm để chưởng môn và điện giám khống chế nhau thì nó đoán rằng, chìa khóa của chưởng môn cũng thiếu mất vài răng, mỗi người khả dĩ mở những gian phòng khác nhau dưới địa cung, tất nhiên khả năng lớn hơn là cả chưởng môn và điện giám gộp lại cũng không thể mở được hết mọi khung cửa dưới địa cung, theo ý thức nó sờ lên Vị Sương, biết mình có trong tay chìa khóa mở được toàn thể địa cung.
Nó nhìn hai phong thư trong bao. Bức đầu tiên ghi: “Gửi chưởng môn, điện giám cùng các tông chủ”, gợi cho nó nhớ lại lời Ngọc Diện rằng khi Vương Lẫm khứ thế có viết thư cho năm người tối cao ở Thục Sơn, xem ra là bức này. Chữ viết đúng là chữ nó từng thấy, kiểu chữ nghiêng ngả của Vương Lẫm, dặn dò cách điều hành Thục Sơn sau khi ông ta mất. Quả nhiên Vương Lẫm là người không thủ cựu quan niệm môn phái, có một đoạn đại ý rằng người Thục Sơn không nhất thiết phải câu nệ hai chữ Thục Sơn, đến các nước tìm công danh cũng được, tự khai môn lập phái cũng được, Thục Sơn chỉ dạy đệ tử hai chữ “nhân” và “hiệp”.
Đường Mật thầm thở dài, tất nhiên hiểu rõ dụng tâm của Vương Lẫm, như thế một là có thể dùng nhân tài giúp rập bốn nước, hai là mọi người Thục Sơn đều mang lòng “nhân hiệp”, trên đời sẽ bớt đi không biết bao nhiêu là phân tranh. Chỉ tiếc rằng hiện giờ người Thục Sơn vì thế mà bị cuốn vào vòng danh lợi, e rằng lúc còn sống ông ta không ngờ tới. Xem ra Vương Lẫm đã đánh giá quá cao sức ảnh hưởng của mình, lòng người là vật khó khống chế nhết, nguyện vọng của ông ta chỉ e thần tiên mới đạt thành được. Nó nghĩ vậy rồi đọc tiếp.
Đoạn thứ hai nói về sau khi ông ta khứ thế trăm năm thì dùng cách nào nghênh tiếp chuyển thế của ông ta. Nó đọc đi đọc lại đoạn này vẫn không hiểu. Thứ viết rằng ngày ông ta khứ thế tròn trăm năm, bất luận chưởng môn, điện giám và tông chủ đương thời là ai cũng phải đến Tị thất trên Tịch Chiếu phong, dùng âm dương làm tâm bày Ngũ hành trận, tụ tâm lực và nội lực của năm người vào Âm dương chi tâm cung nghênh ông ta chuyển thế. Đường Mật chưa từng nghe nói đến Tịch Chiếu phong, Tị thất và Âm dương chi tâm, nhưng nó biết điều quan trọng hơn cả những thứ đó là Vương Lẫm sẽ chuyển thế trùng sinh. Tuy việc đó khác xa quan niệm của nó nhưng đành công nhận việc đó có thật, ngày đó đúng vào hai năm trước khi nó đến Thục Sơn, vậy thì Vương Lẫm chuyển thế vì sao lại chết? Nó càng nghĩ càng hồ đồ, đành xem tiếp.
Nội dung đoạn thứ ba cho thấy chính Vương Lẫm cũng không chắc mình có thể chuyển thế không, ông ta bảo hậu nhân rằng nếu dùng cách trong thư mà không đón được chuyển thế thì sau trăm năm, pháp thuật ông ta thi triển để bảo vệ Thục Sơn và khắc chế ma huyết mất tác dụng thì những nhân vật chủ chốt của Thục Sơn dùng sức mình duy trì. Ông ta nói rõ từng điểm kết giới, ở chỗ nào nên dùng pháp thuật nào, đặc biệt nhắc đến khi Thục Sơn nguy vong, dùng mọi cách rồi mà vẫn vô dụng thì đến lăng mộ ông ta tìm cách sau cùng. Tiếp đó là phương pháp vào trong mộ địa.
Nó nhét thư vào bao, xem bức thứ hai. Bức này cũng do vương lầm viết, dành cho điện giám Ngự Kiếm đường, truyền thụ thuật Phách thủy để sử dụng khi cần thiết.
Xem xong mọi thứ trong bao, nó đoán rằng đây là những thứ mỗi điện giám Ngự Kiếm đường giao cho điện giám kế nhiệm, điều kỳ quái duy nhất là nếu đúng như Tạ Thượng nói, pháp thuật để lại phải là pháp thuật lợi hại nhưng thuật Phách thủy chỉ để mở đường dưới nước, lẽ nào có liên quan đến việc ngày đó nó thấy Mục
Chương 126-130: Bí ẩn sơ hiện
Đường Mật tạm biệt Sử Thụy, đứng hồi lâu trong đình viện ngập ánh trăng rồi đến chỗ Trương Úy.
Gã mở cửa, thấy thiếu nữ mỉm cười đứng trước cửa, đầu tiên ngẩn ra rồi không giấu được niềm vui: “Đường Mật, đồng ý nói chuyện với ta rồi hả?”
“Sao lại nói vậy? Ngươi không đến chỗ ta nói chuyện.” Đường Mật gục gặc đầu, giả bộ tức giận.
Trương Úy cuống lên, vội xua tay: “Không phải, ý ta là ngươi, ôi, ngươi, không phải, là ta, ôi, là ta quá ngốc.” Lắp bắp hồi lâu, gã mới nghĩ được cách nói ra ý cần diễn đạt: “Bằng hữu với nhau thì có ý kiến là bình thường, ta mà thông minh giống Mộ Dung Phỉ, biết chọn thời cơ thích hợp, dùng cách hợp lý để nói với ngươi thì hay quá. Nhưng ta thì lại khiến ngươi giận, hôm đó lời ta nói chắc khiến ngươi đau lòng? Kỳ thật mấy hôm nay ta vẫn tìm cơ hội, thận trọng nhìn sắc mặt ngươi nhưng càng nhìn càng không tìm được cơ hội, thật ra là do ta ngốc.”
Dáng vẻ luống cuống của gã khiến lòng nó trầm xuống, cụp mắt bảo: “Xin lỗi đầu to, hóa ra ta vô tình biến thành người khiến các ngươi phải nhìn sắc mặt mà đoán tâm tình. Ngươi thấy đấy, ta sắp thành Ma vương rồi.”
Trương Úy cho rằng nó nói thế vì bị mình chọc giận, lòng cuống lên, vội nói: “Không phải, sao ngươi lại so mình với Ma vương, ta cam tâm tình nguyện mà.”
Đường Mật ngẩng lên nhìn gã: “Những người theo Ma vương chưa hẳn vì bị bức ép, đầu to, ta nói thế có lẽ ngươi không hiểu nhưng kỳ thật huyết dịch mỗi người đều chảy ma huyết, chỉ là khi đến lúc mới biểu hiện ra mà thôi.”
“Ngươi muốn nói đến pháp thuật ma huyết gì đó của Hoa Tuyền hả?” Trương Úy hỏi.
“Không, ta hoài nghi đó chỉ là pháp thuật đơn giản khiến máu bắn lên không rồi trút xuống như mưa, có thể Mộ Dung Phỉ cũng thực hiện được. Còn những người dính phải máu đó sẽ là người kế thừa ma huyết, đời đời tương truyền chỉ là nàng ta nói cho Đọa Thiên đại nhân nghe, không, cho mọi người có mặt nghe. Ngươi hiểu không, có lẽ đó là đòn phản kích sau cùng của nàng ta trước khi thất bại. Việc này tất tạo cho Đọa Thiên đại nhân vô vàn khó khăn, tất nhiên không thể giết hết mấy vạn người dính phải máu đó, nhưng trong số những người có mặt, sẽ có người nảy sinh chủ trương giết sạch, để thuyết phục những người đó, đại nhân phải đau đầu lắm, tốn nhiều công phu. Liên quân ba nước vốn lâm thời tổ thành để đối kháng Ma vương, cũng vì thế mà có khả năng phát sinh xung đột. Dù sau cùng tất cả đều bị thuyết phục, thì Đọa Thiên đại nhân cũng phải nghĩ cách khắc chế pháp thuật này, đổ công đổ sức nghiên cứu cách đối phó với pháp thuật mình không biết gì tất nhiên hao phí tâm lực vô cùng, đại nhân cũng không trường thọ, Ma vương chiến tử được mười lăm năm thì đại nhân cũng khứ thế, chưa biết chừng vì có liên quan đến công việc quá lao tâm phí thần đó. Không chỉ vậy, sau khi chết đi, Ma vương vẫn khiến người đời hoảng sợ trước cảnh ma huyết tỉnh lại.”
“Nếu thế thì trí kế của Ma vương quả thật lợi hại.” Trương Úy cảm thán.
“Cũng không có gì, công việc trước kia của ta cũng là tung tin giả mỗi khi chủ thuê gặp phải vấn đề gì đó, giúp họ vãn hồi sai lầm.” Đường Mật thấy Trương Úy tỏ vẻ nghi hoặc, biết là mình lại nói hớ: “Ta nói lung tung gì thế nhỉ, đó đều là suy đoán, ta muốn nói chuyện khác với ngươi cơ.”
“Ma huyết mà ngươi nói là gì?” Trương Úy chợt nảy sinh trực giác, thiếu nữ trước mắt tuy cười nói nhẹ tênh nhưng có lời gì đó quan trọng cần nói.
Quả nhiên Đường Mật tắt cười, ngữ điệu trầm trầm nhưng cực kỳ nghiêm túc: “Ta muốn nói là trong một nhóm người sẽ có một người vì nguyên nhân nào đó mà đứng ở đại vị chủ đạo, có thể do tài cán của người đó hoặc do võ công, nói chung là dựa vào gì cũng được, từ thời điểm ban đầu, người đó dẫn cả nhóm người hoàn thành nhiều việc cực kỳ khó khăn, nên cả nhóm người đều tin tưởng, đều ỷ lại, cho rằng người đó làm được mọi việc. Thời gian lâu dần, vì mọi người chung quanh đều nhìn nhận người đó như thần linh vạn năng, dần dần bản thân người đó cũng thấy thế, một khi người đó nghĩ vậy, tức là ma huyết thức tỉnh, hơn nữa còn khiến ma huyết của những người theo mình tỉnh lại, thậm chí những người này còn cuồng nhiệt hơn. Sau đó, cơn cuồng nhiệt như vũng xoáy hút thêm nhiều người nữa vào, khiến ma huyết hiện hình ngày càng nhiều. Nếu người đó là một quân vương, thì cơn cuồng nhiệt này sau cùng sẽ lan đi cả quốc gia. Đầu to, ngươi tưởng tượng xem dưới sự lãnh đạo của người như thế, toán người sẽ gây ra những việc ngu xuẩn gì? Cũng như các ngươi bị ta đưa vào hiểm cảnh vậy.”
Trương Úy cảm giác đã hiểu, hỏi: “Người đó thông minh như thế, lại là lãnh đạo tốt dù làm việc gì đó ngu xuẩn, chỉ cần kịp thời hiểu ra thì sẽ cùng mọi người sửa chữa chứ? Biết sai mà sửa ngay cũng được mà.”
Đường Mật lắc đầu: “Không đơn giản như thế, không tính việc người đó có kịp hiểu ra không, chỉ nói nhiều khi vì tình thế bức bách, không thể sửa đổi được. Ví như Hoa Tuyền phát động chiến tranh thôn tính ba nước được nửa chừng, nhận ra hình như khởi binh hơi vội vàng, nhưng lúc đó, như ngươi xem thư tín các nơi gửi về cho nàng ta thì thấy, người Triệu đang chìm trong giấc mộng thắng lợi và mở rộng cương thổ, ngươi bảo nàng ta dừng lại bằng cách nào? Lại như hiện tại ta hiểu lúc trước mình tự tác thông minh, phạm phải bao nhiêu sai lầm, ban nãy đã xin lỗi Sử Thụy rồi, nhưng ta đưa các ngươi đến cảnh này, nếu ta không làm Ma vương thì tất cả sẽ chết ở đây, nên ta đành thực hiện theo kế hoạch đã định.” Nó hơi ngừng lời rồi nói tiếp, ngữ điệu trịnh trọng chưa từng có: “Đầu to, tuy hiện tại ta tỉnh táo nhưng không dám bảo đảm sau khi trở thành Ma vương, mười năm hoặc hai mươi năm sau vẫn còn tỉnh táo như bây giờ. Nếu có ngày đó, ma huyết trên mình ta tỉnh lại, xin ngươi đồng ý giúp ta một việc, trong số những người ta quen, chỉ ngươi thực hiện được.”
Gã cảm giác tâm tạng thắt lại: “Việc gì?”
“Xin ngươi cứ ở cạnh ta, nếu phát hiện ma huyết trên mình ta tỉnh lại thì nhắc nhở ta, nếu ta còn cố chấp thì cứ thẳng tay giết chết.”
Trương Úy kéo tay nó: “Không, chỉ cần ta còn ở cạnh ngươi, ngươi sẽ không bao giờ phạm sai lầm.”
Thiếu nữ dưới ánh trăng bạc chợt mỉm cười ngọt lịm: “Tức là ngươi đồng ý trông coi ta?”
“Đồng ý.”
“Vậy từ ngày mai ta sẽ là Ma vương.”
Người được phái đến giám thị bọn Đường Mật được lệnh triệt thoái, không để nó phát hiện. Biết những thiếu niên Thục Sơn này võ công không tệ nên những người theo dõi này không dám đến gần, thành thử chỉ biết báo lại việc hôm đó như sau: Đường Mật đứng một mình chừng nửa canh giờ trong sân rồi gõ cửa phòng Trương Úy, hạ giọng trò chuyện hồi lâu rồi mới về phòng nghỉ.
Tuy không biết Đường Mật và Trương Úy nói gì song bốn vị hộ pháp Xích Ngọc cung đoán được phần lớn, vì ngày hôm sau Đường Mật đã nói: “Được rồi, đã vậy ta đồng ý tiếp nhận việc mình là Ma vương chuyển thế. Các bằng hữu của ta đều sẽ đi theo dù ta mang thân phận nào. Mong các ngươi đừng làm khó họ.”
Bốn vị hộ pháp Xích Ngọc cung lập tức quỳ xuống cung nghênh Ma vương bệ hạ mới. Đường Mật đứng đó, chỉ nhìn thấy đỉnh đầu bốn cao thủ tuyệt đỉnh của võ lâm, đột nhiên nảy sinh ý nghĩ: Từ nay về sau, đứng ở vị trí này không hiểu sẽ thấy đỉnh đầu bao nhiêu người? Có bao nhiêu người để nó thấy được gương mặt chân thật? Số lượng đó tất vượt khỏi dự liệu của nó.
Theo những tri thức Đông Ngao dạy, nó mới biết hóa ra hắc đạo cũng phức tạp vô cùng. Nói đơn giản, hắc đạo phân thanh hai phe do và không do Xích Ngọc cung thống lĩnh, các môn các phái do Xích Ngọc cung thống lĩnh lại chia thành hai loại, một là bộ hạ của Ma vương sau khi chiến bại cùng thoái ẩn giang hồ sáng lập môn phái, hai là các môn phái phân liệt khỏi Xích Ngọc cung sau khi Hoa Anh chết. Võ công của những môn phái loại đầu chỉ một phần xuất phát từ Hoa Tuyền, còn lại vẫn tôn nàng ta là chủ cũ. Những môn phái loại thứ hai công hoàn toàn truyền từ Hoa Tuyền, chỉ do khi đó nội bộ Xích Ngọc cung bất hòa, nên không qua lại nữa, nhưng vì Xích Ngọc cung là tổ chức giang hồ duy nhất do Hoa Tuyền và Hoa Anh sáng lập, hơn trăm năm nay trên danh nghĩ vẫn nằm dưới quyền thống lĩnh của Xích Ngọc cung. Còn Đường Mật, không, nên là Ma vương chuyển thế, nhiệm vụ trọng yếu là thống nhất hai lực lượng này.
Bộ phận không do Xích Ngọc cung thống lĩnh đều là những tà phái độc ác, tuy không có dính dáng thật sự đến Xích Ngọc cung nhưng vẫn kính trọng Ma vương, Hoàng Bộ Ngang cho rằng chỉ cần Ma vương chuyển thế sẽ trùng chấn thanh thế của Xích Ngọc cung, tất họ sẽ nghe hiệu lệnh.
Lúc đó Đường Mật mới biết trên vai mình gánh cả trách nhiệm nặng nề của hắc đạo.
“Từ khi cung chủ thượng nhiệm chết, các vị không có cung chủ nữa?” Nó quan tâm đến việc quan trọng này.
“Tất nhiên có, cung chủ hiện đang bận việc, vài nữa sẽ đến. Hơn nữa cung chủ nói rằng chỉ cần chúa thượng trở về, Xích Ngọc cung sẽ do chúa thượng làm chủ.” Đông Ngao giải thích.
“Ngươi đó tên gì? Hiện tại ở đâu?”
“Đến lúc đó chúa thượng sẽ biết.” Hoàng Bộ Ngang đáp.
Đường Mật nhận ra kỳ thật mình không có quyền lợi chân chính, những người này vẫn nghe theo hiệu lệnh của vị cung chủ kia.
Đông Ngao nhận ra sắc mặt nó bất thường, đoán được nó nghĩ gì: “Việc trong cung tạm thời chưa thể giao vào tay chúa thượng, vì chúa thượng còn nhỏ, cần từ từ học tập nhiều việc. Tiếp nữa, chúa thượng vẫn chưa hoàn toàn tỉnh lại, mấy người bọn thuộc hạ đoán rằng khi chúa thượng lớn lên, năng lực và ký ức sẽ từ từ trở về. Nên trước khi thời điểm đó đến, chức trách của bọn thuộc hạ là bảo vệ và dạy dỗ chúa thượng.”
Đường Mật biết mình không thể nhanh chóng biết được bí mật quan trọng của Xích Ngọc cung, tâm tư xoay chuyển, hỏi: “Cũng được, chỉ là ta còn muốn tu luyện ở Ngự Kiếm đường, biết mình biết người vẫn hơn.”
“Tất nhiên, chúa thượng có cơ duyên này, học được bản lĩnh hai nhà đương nhiên tốt đẹp.” Đông Ngao đáp.
“Nhưng ta lo rằng dù các bằng hữu không tiết lộ việc ta là Ma vương thì thiên hạ không có chuyện gì giấu được mãi, vạn nhất lộ phong thanh, người Thục Sơn biết thân phận của ta thì phải làm sao?” Đường Mật lo lắng.
“Việc đó xin chúa thượng yên tâm, dù ở đó cũng có người bảo vệ an toàn cho chúa thượng.” Hoàng Bộ Ngang đáp. Đường Mật giật mình, biết việc này lại do mình tìm ra, quả nhiên Thục Sơn có người của Ma cung cài vào.
Đường Mật cho rằng thân phận của mình hiện tại cũng như nữ hoàng Anh, địa vị rất cao, được tôn sùng nhưng thực ra không có quyền quyết định việc gì, quyền lợi chân chính của Xích Ngọc cung vẫn nằm trong tay vị cung chủ chưa xuất hiện.
Việc này với nó vừa tốt vừa xấu.
Mặt tốt là nó không cần làm việc gì trái với lương tâm, lúc quyết định giả làm Ma vương, lo lắng nhất của nó là sẽ giống với tiểu thuyết võ hiệp, người Ma cung sẽ hỏi nó có nên giết ai đó hay diệt môn phái nào đó. Nó nghĩ vạn nhất gặp phải việc đó thì sao? Lẽ nào mồm năm miệng mười thuyết phục họ nên dĩ hòa vi quý, hoặc dùng đạo lý giảng giải cho chúng nhân rằng nhúng chân vào hắc đạo thì không có tiền đồ, ngay cả đảng Bàn tay đen ở Ý còn đang cố gắng tẩy sạch, hà huống họ vẫn chưa đen hẳn. Không, không thể nào, vạn vạn lần không thể. Thật sự là thế thì Hoàng Bộ Ngang nhất định sẽ hạ cổ độc hoặc thuốc câm biến nó thành con rối chỉ biết gật đầu, mỉm cười.
Mặt xấu là kế hoạch tìm hiểu bí mật của Ma cung đành vứt bỏ, dù nó nghe ngóng từ chính diện hoặc cửa sau thì không ai để lộ nửa điểm về việc Xích Ngọc cung cài cắm ai vào Thục Sơn, đừng nói gì đến kế hoạch đối phó Thục Sơn. Ai cũng khách khí, nói với nó rằng đích thân cung chủ sẽ tự cho nó biết, những việc đó chỉ có vị cung chủ chưa lộ mặt rõ nhất. Đường Mật nghi hoặc vạn phần: Vì sao cung chủ này cứ chần chừ chưa xuất hiện? Có phải hoài nghi nó không?
Nó muốn tìm hiểu một việc nữa là Xích Ngọc cung có di vật nào của Hoa Anh và Hoa Tuyền để lại không, hy vọng thông qua đó tìm ra manh mối nào khác chăng. Nhưng trong đại viện tại Hàm Đan thành này, những nơi nó có thể tìm thì đều không thấy gì. Sự thật, theo Đông Ngao nói, hai tỷ muội này khó lòng để lại di vật gì, hơn trăm năm trước, liên quan ba nước do Vương Lẫm dẫn dắt tấn công Triệu cung, các tướng tĩnh định cho một mồi lửa đốt sạch Triệu cung, rồi treo thi thể Hoa Tuyền lên đầu thành, sau đó vì Vương Lẫm ngăn cản nên họ cướp sạch Triệu cung, thi thể Hoa Tuyền cũng mất tích trong lúc hỗn loạn. Về phần Hoa Anh, Sở vương vẫn sủng ái nàng ta đột nhiên ban chết nên những vật phẩm bên mình, thứ gì đáng tiêu hủy thì tiêu hủy, đáng bồi táng thì bồi táng, hiện giờ trừ phi đào mộ của nàng ta ở nước Sở ra thì khó lòng tìm được gì.
Xem ra, kế hoạch thâm nhập hổ huyệt của nó vô tình kéo tất cả vào vòng nguy hiểm, sau cùng vẫn không đạt được gì.
“Mọi người mắng ta đi, muốn ta tạ tội thế nào cũng được.” Đường Mật cúi đầu ủ rũ.
Bạch Chỉ Vi kéo tay nó khuyên: “Đâu đến nỗi thế, ngươi xem bọn ta chẳng phải vân yên lành sao, hơn nữa cũng có thu hoạch đấy chứ.”
“Đúng, chí ít chúng ta cũng biết Thục Sơn chắc chắn có nội ứng của Xích Ngọc cung. Hơn nữa chúng đã có kế hoạch đối phó Thục Sơn. Chỉ cần chúng tin cô nương, ngày tháng còn dài, cô nương sẽ biết được điều muốn biết.” Mộ Dung Phỉ cũng khoan dung.
“Nhưng sắp phải về Thục Sơn rồi, không còn nhiều thời gian nữa.” Đường Mật vẫn ảo não.
“Đừng vội, lần này chẳng phải ngươi quá nóng lòng mới thế sao. Đối phương tốn thời gian như thế để bày mưu, làm gì có chuyện ngươi chỉ tốn chút xíu thời gian là phá được.” Trương Úy cũng nói.
“Đường Mật, ta tìm hiểu được một việc.” Sử Thụy bảo: “Mấy ngày nay ta cố ý kết thân với vài hộ vệ, ngày nào cũng uống rượu đánh bạc với chúng, hôm qua một hộ vệ uống nhiều, nói ta phải đa tạ y vì không có y thì ta không thể trở thành bằng hữu của Ma vương. Ta lựa lời hỏi dò, sau cùng cũng hiểu ra, hóa ra lần trước ở khách sạn tại huyện An Hưng, xa phu bị chúng mua chuộc nên mới đột nhiên đòi đi, vốn chúng sai mấy tên đóng giả xa phu, khi hai cô nương thuê thì chúng đưa đến thôn ở đầu cầu. Không ngờ ta đột nhiên xuất hiện, có tên trong bọn chúng kiến nghị giết ta trên đường về nhà nhưng y sợ nếu hai xa phu đột nhiên biến mất thì sẽ khiến ngươi hoài nghi, nên y ngăn cản. Sau đó chúng đi trước sửa đổi biển chỉ đường nên chúng ta mới đến thôn đầu cầu.”
Đường Mật vui mừng: “Quả nhiên do người Ma cung bày ra. Sử Thụy, ngươi khá lắm, làm rất tốt.”
Sử Thụy được khen đâm ra ngượng ngùng, sờ gáy ấp úng: “Đâu, đâu có, luận võ công ta kém, còn uống rượu, đánh bạc, moi tin tức thì còn được.”
“Đừng nói thế, bọn ta trừ ngươi ra làm gì còn ai có bản lĩnh đó. Đổi lại là ta, tin tức chưa moi được thì đã say khướt rồi, đấy cũng là bản lĩnh.” Trương Úy khen.
Sử Thụy hớn hở, liếc nhìn Bạch Chỉ Vi mà lòng nở hoa, không khiêm tốn nữa, cười ha hả: “Nói cũng đúng.”
Hoàn Lan nói: “Mục đích của Ma cung dễ đoán, chẳng qua nhằm hủy diệt Thục Sơn, có điều họ khẳng định không chỉ muốn giết mỗi Mục điện giám và Mục tông chủ, chúng ta phải nghĩ cách tìm ra mưu đồ của họ.”
Đường Mật gật đầu: “Đúng, tình hình hiện tại thì ta khó mà biết được những việc đó, chúng ta cứ về Thục Sơn xem có manh mối gì để tìm ra nội ứng.”
“Sao lại cho rằng nhất định chỉ có một nội ứng?” Mộ Dung Phỉ hỏi.
Chúng nhân cũng cho rằng có khả năng này, chỉ là tìm được một đã khó, là mấy nội ứng thì thật đau đầu.
“Các ngươi nói xem Thục Sơn thế này thì ai được lợi nhất?” Đường Mật nghĩ hồi lâu rồi hỏi.
“Theo lý, ai thành tông chủ và điện giám mới thì là người được lợi. Nhưng tông chủ Kiếm tông hiện tại do chưởng môn nhân tạm thời kiêm nhiệm, nhân tuyển cho chức điện giám còn chưa rõ, nên cứ chờ đã.” Bạch Chỉ Vi đáp.
“Ừ, trước đây chức tông chủ đều do tiền nhiệm tông chủ tiến cử cùng năm vị trưởng sứ trong tông thương nghị quyết định. Điện giám cũng như vậy, do tiền nhiệm điện giám tiến cử rồi mọi điện phán cùng thương nghị.” Mộ Dung Phỉ nói: “Nhưng tình huống hiện tại thì khẳng định không thể theo cách đó, nếu tông chủ và điện giám mới, mà theo tình hình trước kia không thể trở thành nhân tuyển, thì càng khả nghi.”
“Ta cũng nghĩ thế.” Đường Mật tán đồng: “Chúng ta đợi xem, chưa biết chừng đấy lại là điểm quan trọng.”
Trương Úy hơi nóng lòng: “Ý ngươi là không tìm Ngân Hồ? Lúc Mục điện giám lâm chung chẳng dặn phải để Ngân Hồ làm điện giám là gì?”
“Không, còn phải đi ngay. Chỉ là chúng ta phải cho Ngân Hồ biết mọi chuyện rồi án binh bất động. Để xem ai thò mặt ra.” Đường Mật đáp.
Nghĩ đến cảnh sắp có viện thủ như Ngân Hồ, chúng nhân đều thấy yên lòng hẳn.
Theo tin tức của Ngạn Thượng, Ngân Hồ đến chín phần mười đang ở trong Lôi âm cốc tại Tiểu Trùng sơn ở nước Sở. Ngọn núi này nằm ở bờ một nhánh nhỏ tại thượng du Hàm giang, do mười hai đỉnh tạo thành, mỗi đỉnh không cao lắm nhưng trùng điệp vách đá dài cả trăm dặm, sơn cốc trập trùng, địa hình rất phức tạp.
Đường Mật dựa vào địa đồ đi liền hai ngày mới biết trình độ địa trắc của thế giới này cực kỳ lạc hậu, theo địa đồ thì khó mà tìm được vị trí Lôi âm cốc. Cũng may đó không phải là nơi vắng vẻ quá, vào ngày thứ ba, cả nhóm gặp một người hái thuốc, được người đó chỉ dẫn mới tìm được phương hướng Lôi âm cốc.
Người hái thuốc cũng lấy làm kỳ quái: “Các vị đến Lôi âm cốc làm gì?”
“Bọn tiểu nữ có một vị sư trưởng đó nên đến thăm.” Đường Mật đáp.
Người hái thuốc lấy làm lạ: “Trong Lôi âm cốc sao lại có người cư trú, cách xa lắc đã nghe thấy tiếng sấm ầm ầm, ai mà chịu được?”
“Vì sao lại có tiếng động ầm ầm nhỉ?”
“Không biết, không ai dám đến, ai cũng bảo đó là nơi ở của thượng cổ yêu vật.” Người hái thuốc đáp, giọng nói đượm mùi dọa nạt trẻ con.
Mấy thiếu niên nhìn nhau, phát giác đồng bạn không hề sợ, hiếm khi tâm ý tương thông như thế, gần như đồng thời mỉm cười. Đường Mật nói: “Đi, xem yêu quái.”
Cả nhóm đi một ngày mới đến cốc khẩu nằm giữa hai ngọn núi, chỉ đủ cho một người đi qua, lại đi chừng một tuần trà giữa khe núi hẹp, bầu trời trên đầu chỉ nhỏ như sợi chỉ đột nhiên rộng mở, hóa ra đã đến một sơn cốc.
Khí hậu trong sơn cốc riêng biệt, ấm áp hơn bên ngoài, hoa cỏ rậm rạp, cảnh tượng như mới đầu hạ. Điểm kỳ quái duy nhất là cây cối không quá dày tán, không gốc cây nào có lá xanh.
Trương Úy gõ gõ gốc cây khô cạnh mình, tiếng bộp bộp vang lên: “Hình như bị sâu đục rỗng rồi.”
Đường Mật hỏi: “Cây gì mà gõ lên nghe như gõ trống nhỉ?”
Cả nhóm quan sát cái cây hồi lâu nhưng không lần ra tên cây là gì.
“Tiếng sấm có phải do những cây này bị gió thổi vào pháp ra? Cốc khẩu ở đây hẹp thế này, thanh âm lồng lộng, nghe khác gì tiếng sấm đâu.” Sử Thụy nói, lại gõ mạnh vào thân cây: “Cốp.” Tiếng động vang lên, một con chim nhỏ nằm trong hốc cây kinh sợ bay lên.
“Sử Thụy, ngươi dọa chim sợ rồi.” Đường Mật ai oán, chưa kịp nhìn rõ hình dáng thì con chim vút vào rừng cây khô như mũi tên rời dây cung.
Sử Thụy định đáp, chợt nghe trong rừng vang lên tiếng sấm, càng lúc càng lớn, tựa hồ có vô số mặt trống cùng gõ, thoáng sau biến thành tiếng ầm ầm khắp sơn cốc.
Đường Mật bịt tai, gào lên với Sử Thụy: “Ta thấy không phải do gió, chưa biết chừng là con chim đó mổ vào cây, Sử Thụy, ngươi chọc giận chim gõ kiến rồi.” Nhưng dù là gió thổi hay chim mổ vào cây thì cả toán cũng biết được nguyên do của tiếng sấm, tuy nhiên cũng cảm thấy tiếng sấm khó chịu, phảng phất tâm phế đều rúng động, đành bịt tai cùng đi vào khu rừng khô héo.
Đường Mật vừa đi vừa nghe, phát giác “tiếng sấm” không đơn điệu, mà cao cao thấp thấp, dài dài ngắn ngắn, có tiết tấu rõ ràng.
Sáu người lại đi thêm một chốc, khu rừng khô ngày càng dày, Sử Thụy lẩm bẩm: “Sao còn chưa đến, tai sắp long ra rồi.” Tiếng than vừa buột ra thì chìm lấp trong tiếng ầm ầm, thấy chúng nhân không để ý, y định nói thêm một câu, ai ngờ mới mở miệng thì cổ họng mặn chát, phun ra một ngụm máu.
Trương Úy đi trước mặt y, chợt cảm thấy cổ nóng lên, đưa tay sờ thì thấy dinh dính, mùi tanh xộc vào mũi, kinh hãi ngoái lại nhìn. Sử Thụy đang bịt mồm, kinh hãi nhìn gã, máu theo kẽ ngón tay chảy ra, thấm ướt nửa tay áo.
Trương Úy đến trước mặt Sử Thụy, thò tay bắt mạch: “Thế nào, khó chịu ở đâu?”
Trong cuộc đời chưa dài lắm của Sử Thụy, y chưa từng bao giờ thổ huyết, nhất thời không biết hình dung thế nào, tựa hồ không chỗ nào quá khó chịu nhưng toàn thân lại không khỏe lắm, liền nói cho qua: “Không rõ, không đau chỗ nào nhưng trong lòng khó chịu.”
Trương Úy cảm nhận được nội tức của y hơi hỗn loạn, có vẻ bị nội thương: “Hình như thụ nội thương, ai đả thương ngươi? Bắt đầu khó chịu từ lúc nào?”
Cảm giác khó chịu trong lòng Sử Thụy ngày một rõ ràng, nhưng không đến mức không chịu nổi, không hiểu sao lại nghiêm trọng đến mức thổ huyết, y thoáng nghĩ rồi đáp: “Lúc mới nghe âm thanh thấy hơi khó chịu nhưng ta cho rằng ai nghe tiếng động lớn thế cũng đều khó chịu nên không để ý.”
Kỳ thật Trương Úy cũng thấy khó chịu, cũng cho rằng âm thanh quá lớn, giờ nghe Sử Thụy nói vậy liền kéo y ngồi xuống điều tức. Gã tuần hoàn nội tức liên tục, chừng một tuần trà sau thì cảm giác đó tan biến, tiếng động tuy không giảm nhưng tâm không còn bức bối nữa, gã hỏi Sử Thụy: “Ngươi thấy thế nào?”
“Tựa hồ ổn rồi, sao thế nhỉ?” Sử Thụy hỏi xong, cũng hiểu ra đôi phần, tự đáp: “Âm thanh đó khuấy loạn nội tức của ta, đúng thế.”
“Ta nhớ điện phán từng bảo Thanh Nguyên tự có môn võ công là Phật âm bổng hát dùng thanh âm chế ngự địch, trên giang hồ cũng có cao thủ đủ khả năng dùng âm thanh đả thương người. Tiếng động này có lẽ cũng như thế.” Trương Úy đáp.
“Nhưng vì sao tất cả nghe thấy lúc đầu lại không sao?” Sử Thụy hỏi tiếp.
Trương Úy ngẫm nghĩ một chút: “Có lẽ sức mạnh nhiễu loạn nội tức của thanh âm này không mạnh, chỉ ta chỉ thấy hơi khó chịu nên không để ý. Nếu cũng mạnh mẽ như nội lực khi cao thủ xuất chưởng thì võ công cỡ Hoàn Lan tất đã nhận ra.”
Sử Thụy ngượng ngùng: “Vì võ công của ta quá kém nên mới không chịu được, bất quá lúc ta mới vào rừng, cảm giác khó chịu tăng dần.”
Trương Úy cũng có cùng cảm giác, mơ hồ hiểu được có điểm bất thường: “Ta cũng thấy cổ quái, nhưng không nói rõ ra được, chúng ta gọi mọi người lui đi đã.”
Nhưng lúc đó bọn Đường Mật đã đi mất bóng, Trương Úy và Sử Thụy không hiểu vì hai gã đi cuối, cộng thêm tứ phía toàn âm thanh nên không chú ý đến người khác hay còn nguyên nhân nào nữa mà mấy người kia không hề nhận ra hai gã đã lạc.
Trương Úy càng lúc càng bất an: “Sử Thụy, ngươi mau rời khỏi cốc, tìm chỗ nào âm thanh nhỏ mà vận khí điều tức, ta đi tìm họ.” Sắc mặt gã cho Sử Thụy biết sự tình không đơn giản, biết mình có đi cũng chỉ loạn thêm, liền đáp: “Được, không cần lo lắng, mau đi đi.”
Trương Úy đi vào trong rừng tìm kiếm, vừa tìm vừa dùng nội lực chống lại âm thanh, nhận ra nội lực của gã cứ giữ nguyên, cũng có nghĩa là sức mạnh của tiếng sấm không hề tăng thêm, không hiểu sao lúc đầu Sử Thụy chịu được mà sau đó lại thổ huyết nhỉ? Gã đang tự hỏi chợt nhớ ra Đường Mật từng kể cho mình nghe chuyện luộc ếch, đại ý là cho con ếch vào nước sôi, nó sẽ nhảy ra ngay nhưng nếu cho vào nước lạnh rồi tăng nhiệt từ từ thì con ếch sẽ chết trong nồi nước. Lúc đó Đường Mật bảo: “Kỳ thật nhiều người và quốc gia đều bại vong vì chính nguyên nhân này, đột nhiên có thiên tai thì sẽ dấy lên sức mạnh cầu sinh, nghiến răng chống chọi qua được. Ngược lại, gặp phải thứ gì đó từ từ xâm lấn và tổn hại, đến khi ngươi cảm thấy không chịu được nữa thì đã quá muộn mất rồi.” Gã cảm thấy chuyện này rất hợp lý, khiến lòng người ta được khai khiếu, giờ bên tai vang lên tiếng sấm ầm ầm thì chợt tỉnh ngộ: Hỏng rồi, lẽ nào họ cũng biến thành ếch.
Gã lập tức hiểu vì sao Sử Thụy thổ huyết, bởi âm thanh đó từ từ tổn hại đến tâm mạch, nội lực Sử Thụy không cao nên không lâu sau đã xảy ra chuyện, còn gã và những người khác công lực cao hơn nên không thấy gì, nhưng cứ đi tiếp thế nào cũng bất tri bất giác bị trọng thương.
Gã lo lắng vạn phần, biết rằng âm thành này chuyên đối phó với cao thủ, như Sử Thụy thì đi chưa bao lâu đã phát hiện có chuyện nên lui nhanh, còn cao thủ nhất định sẽ vào sâu trong rừng với rút lui thì đã muộn. Gã không hiểu võ công của Hoàn Lan và Mộ Dung Phỉ thì đi đến đâu mới bị trọng thương, nhất định sớm tìm được họ vẫn hơn.
Càng khiến gã lo lắng là Trầm Phong bắt đầu xáo động, kiếm hồn tất nhiên không thể bị thanh âm gây thương tổn, thật ra là chuyện gì? Gã không kịp nghĩ thông, đã nhấc chân chạy vào trong rừng.
Ban đầu gã đi trong rừng còn có thể vận công đối kháng, vừa chạy nhanh thì không thể chia nội lực ra làm đôi để vừa thi triển khinh công vừa chống lại âm thanh. Gã nghiến răng mặc kệ âm thanh tác động, dốc mười thành công lực vào hai chân.
Gã cảm giác rõ ràng sức mạnh của Trầm Phong dồn lên mình, cũng như lúc trong Đào hoa chướng, phảng phất có một mũi dùi đâm vào bức tường thép bao quanh tâm linh. Lẽ nào âm thanh này cũng như hoa đào, có thể gọi được kiếm hồn chi lực, óc gã vừa dấy lên ý nghĩ này thì thấy bốn người bọn Đường Mật đang đi tới.
“Đường Mật, sao các ngươi đã về rồi, để ta tìm.” Trương Úy bước ra hỏi.
Ai ngờ bốn người như thể không thấy gã, ánh mắt trống rỗng nhìn thẳng, tiếp tục cất bước. Gã từng thấy tình cảnh này trong Đào hoa chướng, lúc đó mọi kiếm đồng đều làm theo ý mình, không ai để ý đến gã. Lẽ nào họ cũng bị khốn trong ảo ảnh? Gã chợt thấy kiếm hồn chi lực tăng hẳn, đau đớn đến độ trán toát mồ hôi lạnh.
Xưa nay gã chỉ biết ảo ảnh là pháp thuật mê hoặc nhãn tình rồi tiến tới mê hoặc tâm linh, không ngờ âm thanh cũng có thể, gã cuống lên không biết cách phá giải thế nào. Trầm Phong ngày càng náo động, như thể đang gầm gào trong bao, nhất thời gã không biết làm thế nào, đi sau bọn Đường Mật gọi loạn xạ: “Đường Mật, nghe thấy không, tỉnh lại đi.”
Bọn Đường Mật vẫn thản nhiên đi tiếp. Lúc đó Trương Úy đã hiểu rõ toàn bộ uy lực của âm thanh, có thể khiến cao thủ từ từ thụ thương rồi đẩy họ sa vào ảo ảnh. Cứ thế thì dù thương tổn của ảo ảnh gây cho tâm mạch không nặng nhưng cao thủ bị khốn mấy canh giờ liền, bị thương nặng sẽ khó lòng thoát thân. Tuy gã biết mình không bị ảo ảnh mê hoặc, có thể vì sức mạnh của người tạo ra ảo ảnh không cao, nhưng hiện tại kiếm hồn của gã đang báo động như lúc ở Đào hoa chướng, khó dám chắc kiếm của bốn người kia không như thế. Gã không biết ngũ kiếm hợp lực sẽ tạo ra được ảo ảnh cỡ nào, rồi bản thân cũng bị mê hoặc thì thật sự không thể cứu được nữa.
Gã càng nghĩ càng lo lắng, cơn đau trong tâm dồn dập từng hồi, thân thể run lên vì không chịu nổi, cộng thêm gã không chống cự lại thanh âm, tâm mạch dĩ nhiên tổn hại, trước mắt chợt tối sầm rồi ngã xuống.
Ngay sát na thân thể sắp ngã xuống đất, gã bạt trường kiếm chống xuống, thân hình lăng không lượn vòng, đáp xuống đất yên ổn, múa kiếm như lúc ở trong Đào hoa chướng. Nhất thời kiếm khí ràn rạt, kiếm phong ngang dọc.
Khu rừng khá rậm rạp, gã không để ý một chốc, Trầm Phong đã chém gục một gốc cây khô, một con chim từ trong hốc cây bay lên. Gã vốn không để tâm, chém gục một gốc cây nữa, lại có một con chim từ hốc cây bay ra.
Gã đâm ra nghi hoặc, sao mỗi gốc cây lại có một con chim? Trựa giác cho gã biết có chuyện bất thường, liền dừng múa kiếm, chém gục liên tục hai gốc nữa, vẫn có chim ẩn mình trong hốc. Gã nhớ lại lúc vào rừng Đường Mật bảo tiếng động xuất hiện là do chim mổ vào thân cây, lập tức gã thông suốt. Vốn gã không hiểu tiếng động sao cứ luẩn quẩn tứ phía, hóa ra là trong hốc cây có chim mổ vào.
Nhưng làm cách nào trừ bỏ được âm thanh? Gã cho rằng tìm được nguồn gốc âm thanh cũng vô dụng, ở đây cả rừng toàn cây khô, lẽ nào phải chặt sạch? Gã là người đầu óc đơn giản, không nghĩ được cách gì hay hơn liền nghiến răng vung kiếm chém tứ phía.
Múa kiếm lên, cảm giác kiếm hồn chi lực cắn xé bản thân liền biến mất dần, múa càng lâu thì gã càng nhận ra tuy tâm lực chỉ có một chút đó nhưng vì kiếm hồn quá sống động nên nảy sinh cảm giác kỳ diệu dùng tâm khống chế kiếm. Gã quên cả chém cây, cứ thoải mái vung kiếm trong rừng, bộ pháp dần biến thành Ma La vũ, nhát kiếm chém ra, kiếm khí vô hình như thể sợi dây tơ ẩn tàng trong ánh sáng, từ từ lan ra, đi qua chỗ nào là cành cây lay động, thân cây run lên, những gốc không chắc đều bị kiếm khí chặt đứt, đổ xuống ầm ầm.
Gã hớn hở, chém cách này nhanh hơn ban nãy ba lần, không lâu sau, trong vòng năm trượng quanh gã có quá nửa số cây bị hủy, tuy tiếng động vẫn còn nhưng gã không thấy ở sát cạnh mình nữa. Gã biết mình tìm đúng thủ phạm, đã không tìm được cách nào hay hơn thì cứ liều mạng hủy cây thôi.
Gã đề khí, cảm giác nội tức thoáng bất ổn, biết tâm mạch bị thương nặng hơn, nhưng lúc đó không thể cả nghĩ nữa, vung kiếm lao đến một vạt cây. Lúc vung kiếm lên, chợt vang vang tiếng địch du dương, chỉ tiếng địch thôi nhưng vang lên rõ rệt trong mớ tiếng sấm ì ùng.
Gã nhận ra tiếng địch không dễ nghe, cao cao thấp thấp kỳ quái khó tả, tựa hồ có thể xung kích tâm mạch như tiếng sấm, gã vừa múa kiếm vừa cảm giác một luồng sức mạnh khác ập tới. Lòng gã thắt lại, không hiểu tiếng địch là bạn hay thù, cứ vận đủ sức mạnh lên đối kháng. Khoảnh khắc đó, sức mạnh của gã, của kiếm hồn, của tiếng địch và tiếng sầm đồng thời dồn lên tâm mạch gã vốn đã thương tổn. Gã đau lớn kêu lên thê thảm, tay lỏng ra, trường kiếm rơi xuống.
Có thứ gì đó nát vụn, trước khi mất đi ý thức gã nghĩ thế, tựa hồ là tâm của gã. Lúc Trương Úy tỉnh lại, thứ đập vào mắt đầu tiên là mấy gương mặt quen thuộc của Đường Mật, Bạch Chỉ Vi, Mộ Dung Phỉ, Hoàn Lan và Sử Thụy. Tuy gã chưa hiểu rõ tình hình nhưng bạn bè đều ở đây, lòng yên tĩnh hẳn, hít sâu một hơi hỏi: “Sao rồi, các ngươi đều ổn chứ?”
“Bọn ta vẫn ổn, ngươi sao rồi?” Đường Mật thấy lúc gã nói, trung khí đầy đủ, biết gã không sao, lấy làm vui mừng hỏi.
“Tâm mạch bị Thiên âm chướng thương tổn, vận công điều tức một ngày là khỏe.”
Trương Úy nghe thấy giọng nói mười phần thân thuộc, liền vượt qua thân ảnh mấy đồng bạn, thấy một người đang ngồi trên ghế cách đó không xa. Mái tóc người này bạc trắng rủ xuống vai, gương mặt vẫn trẻ trung, khóe mắt hơi nheo lại, tựa như cười tựa như không, chính là Ngân Hồ Tạ Thượng mà bọn gã đang tìm.
“Tạ đại ca quả nhiên ở đây.” Gã lên tiếng, lòng thầm hoan hỉ, lục tục bò dậy, không ngờ vì mới bị thương nên vừa nhỏm dậy, khí xuyết xông lên, lòng chợt trống rỗng đầy cổ quái, cũng may hàng ngày gã khổ luyện võ công, hạ bàn căn cơ chắc chắn, thân hình không hề lay động, chúng nhân cũng không nhận ra.
“Thôi, vì tiếng gọi đại ca này, ta không tính toán với đệ nữa, đệ hủy mất của ta một khoảnh lớn Thiên âm lâm.” Tạ Thượng nói, “xưa nay người ta vào rừng, phát hiện bị khốn thì đều tìm cách phá trận chứ có ai như tiểu tử ngốc, vung kiếm chém cây.”
Trương Úy cười ngượng ngùng.
Trừ Đường Mật và Bạch Chỉ Vi, còn lại đều không hiểu vì sao Ngân Hồ Tạ Thượng đủ vai vế là lão tiền bối lại xưng huynh gọi đệ với Trương Úy, nhìn một già một trẻ với vẻ nghi hoặc. Trương Úy xưa nay vẫn trì độn với ánh mắt của người khác còn Tạ Thượng từ bé đã đầu tóc bạc phơ, quan bị chỉ chỉ trỏ trỏ nên tạo thành tính cách coi ánh mắt người đời là không khí, thành ra cả hai trò chuyện đầy tâm đắc.
“Tạ đại ca nói đến Thiên âm lâm là khu rừng cây khô hả? Chim chóc ở đó cổ quái thật, vì sao lại gõ vào cây phát ra tiếng ầm ầm? Còn nữa, vì sao tiếng động có thể đả thương tâm mạch người ta, lại tạo ra được ảo ảnh?” Trương Úy hỏi.
“Tiếng gõ vào cây nghe như trống trời nên được gọi là Thiên âm thụ, còn Thiên âm điểu này là loại chim cộng sinh với cây, vốn mười phần yếu ớt, không có sức chống lại ngoại địch, một khi thấy ngoại địch, Thiên âm điểu cảm giác được nguy hiểm liền trốn vào hốc cây, mổ mạnh vào vỏ tạo thành âm thanh inh tai đuổi địch nhân đi. Còn về việc âm thanh này thương tổn đến tâm mạch thì chắc các điện phán đã dạy, lúc huynh mới đến đây, thấy âm thanh này có thể từ từ gây thương tổn cho con người, có thể dùng làm lớp phòng ngự địch nhân. Chỉ là công lực của âm thanh này không mạnh, nếu cao thủ thật sự đến sẽ an toàn đi qua được khu rừng, nên huynh khoét thêm nhiều hốc cây, một khi Thiên âm thụ phát ra thanh điệu sẽ biến đổi, tạo thành ảo ảnh vây khốn địch nhân.” Tạ Thượng giải thích.
Trương Úy có phần không hiểu: “Tạ đại ca ở trong đó không thấy ồn sao?”
Tạ Thượng nói: “Không hẳn, Thiên âm điểu không mổ vào cây khi không gặp địch nhân, vạn nhất có dã thú tiến vào thì Thiên âm điểu khẽ mổ, ta thổi địch là dỗ được chúng.”
Vừa hay một con Thiên âm điểu bay đến, chúng nhân phát hiện thân thể nó nhỏ xíu, không lớn hơn ngón cái nam tử trưởng thành bao nhiêu, lông màu đen nhạt không có gì bắt mắt nhưng lại là loài chim có thể tạo thành đại trận giết người.
“Thật không ngờ thứ này khiến bọn muội suýt nữa mất mạng ở đó.” Đường Mật than.
“Đúng, ngàn vạn lần đừng nên coi thường kẻ yếu, chỉ cần họ tích tụ sức mạnh, sẽ tạo thành phản kích kinh hồn.” Tạ Thượng nói.
Đường Mật nhớ ra, Tạ Thượng và Trương Úy tuy coi là quen nhau, không đến nỗi vì bí mật phòng ngự của nơi ẩn cư mà coi như không quen, tâm niệm chợt động: “Tạ đại ca không định ở đây nữa hả?”
Tạ Thượng nhìn Đường Mật và Bạch Chỉ Vi, biết hai tiểu cô nương này đều rất thông minh, bằng không năm trước y đã không tắc tị với cả hai, vì thế mà y vốn thích Trương Úy hơn hai cô, giờ thấy Đường Mật nói đúng liền hơi nhíu mày: “Đúng vậy, các vị đến vừa hay, vốn chỉ mấy ngày nữa là ta sẽ đi.”
“Tạ đại ca định đi đâu?” Trương Úy hỏi.
“Về Ngự Kiếm đường, ta nhận được tin từ Thục Sơn là Mục Hiển đã khứ thế, họ không tìm được người kế nhiệm, mời ta xuất sơn.” Tạ Thượng mỉm cười, xem ra không để tâm lắm đến danh hiệu điện giám Ngự Kiếm đường được người đời tôn kính, khẩu khí tỏ vẻ khó xử. Đường Mật đâm ra cảnh giác, theo ý thức nhìn những người khác, họ cũng đang nhìn nó, tất cả hiểu nhau nên không nói gì nữa.
Trương Úy cũng ngẩn người, trong óc loáng qua ý kiến từ rút ra từ phân tích hôm trước rằng ai đăng lên ngôi tông chủ hoặc điện giám đều đáng hoài nghi, nhưng gã không muốn Tạ Thượng liên quan đến chuyện này, vội hỏi: “Tạ đại ca năm xưa đã từ nhiệm chưởng môn để quy ẩn, chắc không thích việc thế tục bận rộn, lẽ nào lại chịu xuất sơn?”
Đường Mật nói: “Đúng, kỳ thật mấy người bọn muội cũng muốn xin Tạ đại ca xuất sơn, lúc Mục điện giám lâm chung có dặn thế nhưng dọc đường bọn muội đều cho rằng đại ca sẽ cự tuyệt.”
Tạ Thượng tựa hồ không muốn trả lời, đáp hàm hồ: “Ta có nguyên nhân riêng, sau này hẵng nói.” Đoạn chuyển sang chủ đề khác, hỏi Trương Úy: “Trương Úy, sao đệ lại biết nửa pho Ma La vũ?”
Trương Úy không hiểu ‘nửa pho Ma La vũ’ là gì, giải thích đơn giản việc học được rồi hỏi: “Tạ đại ca muốn nói rằng Ma La vũ bọn đệ thấy trong đèn chỉ là một nửa pho võ công nào?”
Tạ Thượng đáp: “Có thể nói thế, Ma La vũ là võ công Ma vương sáng tạo ra khi tỷ võ với Đọa Thiên đại nhân, đại nhận cực kỳ tán thưởng pho võ công này, lại được gợi hứng nên sáng tạo ra một pho phối hợp với Ma La vũ. Nhưng đại nhân không đặt tên cho bộ pháp mới bởi hoàn toàn thoát thai từ Ma La vũ của Ma vương, cũng như nửa thân thể khác của một người. Gọi nó là Ma La vũ luôn cũng được.” Ngữ khí Tạ Thượng tỏ vẻ coi thường: “Chỉ là người Thục Sơn chúng ta lại kỵ húy cái tên này vì cho rằng Ma la là chướng ngại ngăn cản người ta thành phật, người khai sáng Thục Sơn sao có thể sáng tạo ra võ công này. Đâu ngờ những nhân vật năm xưa đâu có nhỏ nhen như thế, họ mới là những nhân vật phong lưu chân chính.”
“Đúng, nếu lúc tỷ võ hai người đó thi triển cả hai pho Ma La vũ thì quả thật thiên y vô phùng, tuyệt thế phong tư đến mức nào nhỉ?” Đường Mật cảm thán.
Nhắc đến việc này, Tạ Thượng rất có hứng, tiếp tục nói: “Ma La vũ trừ bộ pháp khinh linh phiêu dật, lại không tiêu hao nhiều nội lực ra thì còn một nguyên nhân nữa mà được gọi là Ma La vũ. Các vị có nhận ra rằng trong những lúc khẩn cấp, bộ pháp sẽ tự động chuyển thành Ma La vũ không? Còn nữa, dù sử dụng võ công gì, Ma La vũ đều có thể tương thích.”
Trương Úy nhận ra quả nhiên như thế. Ví như lúc nãy, vốn gã định dùng võ công Thục Sơn, sau đó chặt nhiều cây, lòng cuống lên, kiếm vung càng lúc càng nhanh, bộ pháp liền biến đổi.
“Đúng vậy, sao lại thế nhỉ?” Gã hỏi.
“Việc đó thì huynh đã nghĩ kỳ rồi, thứ nhất vì không cần nhiều nội lực, mỗi khi khẩn yếu, chúng ta thường tập trung nội lực lên tay, người biết Ma La vũ tất nhiên sẽ chuyển bộ pháp sang. Thứ hai, thoạt nhìn thì phức tạp nhưng mỗi nước của Ma La vũ cực kỳ đơn giản, không xung đột với bất kỳ chiêu thức nào. Con người bị Ma la bất tri bất giác mê hoặc, đặt cái tên này cũng vì nó vô tình len lỏi vào võ công bản môn, dung hợp thành một thể.” Tạ Thượng không hề cố kỵ gì, cảm thán trước mặt mấy hài tử: “Ma vương đích xác tài hoa, dù ở vị trí đối địch cũng phải khâm phục nàng ta.”
Mấy thiếu niên nhìn nhau, Đường Mật cố ý hỏi: “Tức là Tạ đại ca cũng biết Ma La vũ?”
Kỳ thật đó cũng là nghi vấn trong lòng chúng nhân, ai cũng cho rằng Tạ Thượng dù biết cũng sẽ nói là không, chỉ có Đường Mật hiểu y vô cùng tự thị, chưa biết chừng sẽ không che giấu, quả nhiên y đáp: “Tất nhiên biết chứ, lúc Đọa Thiên đại nhân khứ thế có viết một bức thư cho chưởng môn, điện giám Ngự Kiếm đường cùng các vị tông chủ, trong đó để lại cho chưởng môn và điện giám mỗi người một bộ võ công bí tịch nhằm khống chế lẫn nhau, gộp hai pho lại là Ma La vũ hoàn chỉnh duy nhất trên đời.” Nghe đến đây, ngay cả đầu có chậm chạp như Trương Úy cũng hiểu nếu Tạ Thượng tiếp nhiệm chức điện giám thì y là người đầu tiên sau hơn trăm năm được đọc đầy đủ hai bản bí tịch. Gã không giỏi che giấu, vừa nghĩ thế, ánh mắt nhìn Tạ Thượng liền thay đổi.
Tạ Thượng linh mẫn cực độ, nhận ra thần sắc gã biến đổi. Giang hồ xưng tụng y là Ngân Hồ, không chỉ vì mái tóc sinh ra đã bạc trắng mà vì y thông minh, võ công tu vi cực cao, trú nhan thuật hơn người, như thể hồ tiên bất tử. Cũng may y biết Trương Úy tính tình đơn thuần, không bao giờ suy nghĩ theo hướng phức tạp, hiểu gã không chấp nhận được việc chưởng môn Thục Sơn cũng biết Ma La vũ, liền cười: “Thế thì sao, võ công thôi mà, tên có tà một chút thì Đọa Thiên đại nhân cũng không quan tâm.”
Đường Mật đại khái đoán ra vì sao sắc mặt Trương Úy biến đổi, sợ gã lỡ lời liền xoa dịu: “Đúng, cũng không sao hết.”
Khi Tạ Thượng đi rồi, mấy đứa chụm lại thương lượng, đều thấy rằng không nên hoài nghi Ngân Hồ nhưng tình hình này cần phải cẩn thận, ít nhất trước khi tìm rõ chứng cớ chứng minh Tạ Thượng không liên quan gì đến việc này thì không thể nói gì nhiều. Đặc biệt họ biết có thể Ngọc Diện bị một người biết Ma La vũ hại thì càng phải phòng bị.
Thương nghị xong xuôi, mấy thiếu niên nhìn nhau, chợt nhận ra giờ chỉ có mấy đưa dám hoàn toàn yên tâm tin tưởng nhau. Ngoài trời, màn đêm đã buông xuống tự khi nào, bóng tối đen thẫm như mực len qua khe cửa vào trong nhà, từ từ xâm lấn ánh nến leo lét. Đường Mật nhìn những gương mặt thiếu niên quanh mình, ánh nến chao chát trên từng gương mặt ngây thơ, lòng nó ấm lại: “Kỳ thật cũng chẳng sao hết, có mọi người là đủ rồi.” Các thiếu niên từ biệt Tạ Thượng rồi về Thục Sơn, dọc đường cười nói trò chuyện rất vui vẻ. Điều khiến tất cả đều cao hứng là Đường Mật sau rốt cũng hoàn toàn khôi phục lại dáng vẻ trước kia, ánh mắt không còn nóng lòng mà lấp lánh sáng rực.
Nó thích gọi Hoàn Lan là Tiểu Thúy rồi nói với thiếu niên đang xanh lét mặt mày: “Ngươi xem này, mặt mũi xanh thế kia, đúng là danh phù kỳ thực.” Mỗi lần như thế, Hoàn Lan lại giãn mặt mũi ra, bật cười giơ cờ trắng đầu hàng.
Nó cũng hay giả theo cử chỉ lịch lãm của Mộ Dung Phỉ ra rồi nói với y đầy thành thật: “Phỉ quân cư xử gần như hoàn hảo, chỉ có một điểm không ổn khiến người ta cảm thán sao tường trắng lại có vết than.”
Mộ Dung Phỉ cười hỏi: “Chỗ nào?”
Nó đưa tay áo che kín nửa mặt, đôi mắt tròn to long lanh chợt hấp háy: “Cười không hở răng, Tiểu Hồng cô nương.”
Tất nhiên nó thích nhất là cùng Bạch Chỉ Vi trêu Trương Úy, có mặt gã là nó giả đò gục đầu lên vai Bạch Chỉ Vi tỉ tê khóc: “Tức chết mất, ban nay ta nghe mấy tiểu nha đầu ở khách sạn nói ta là loại nhà quê không cha không mẹ, lấy đâu ra đại tiểu thư không có nha đầu đi theo hầu hạ. Chỉ Vi, ta nhớ cha mẹ lắm, nếu họ vẫn còn thì ta sẵn sàng phản ứng nhưng hiện giờ chỉ biết nuốt giận.”
Bạch Chỉ Vi ra vẻ đồng tình, an ủi: “Đừng giận, chi bằng sau này ta giả làm nha hoàn của ngươi.”
Nó lắc đầu: “Ngươi là thiên kim đại tiểu thư, bảo ngươi bưng nước rót trà mà làm giống mới là lạ. Người ta còn bảo lấy đâu ra loại tiểu thư mà nha hoàn còn có thần khí hơn chủ.”
Trương Úy nghe thấy, trong lòng bất nhẫn: “Đường Mật, hay là ta giả thành đầy tớ của ngươi?”
Nó giả đò lau nước mắt: “Không được, có tiểu thư nào ra khỏi nhà lại mang theo đầy tớ, ngươi phải giả làm nha hoàn.”
Trương Úy nghiến răng: “Được.”
Nó tức thì hớn hở: “Đồng ý rồi không được nuốt lời nhé, Như Hoa.”
Nhưng chỉ Đường Mật biết, càng gần Thục Sơn, nó càng bất an.
Lúc không có ai, nó liên tục móc chìa khóa Mục Hiển để lại ra nắm trong tay, hồi lâu sau mở tay ra, chìa hóa hằn vết lên lòng tay đỏ ửng. Nó dùng ngón trỏ tay kia khẽ vuốt dấu đỏ, không cảm thấy đau mà lòng yên tĩnh lại, biết dù thế nào thì nó cũng nắm trong tay một manh mối hữu dụng.
Nó chỉ không nghĩ thấu là chiếc chìa khóa này mở được vật gì. Theo tình hình lúc đó, Lý Liệt không hề lục lọi khi giết Mục Hiển, cũng có nghĩa rằng đối phương không cần hoặc chí ít không vội lấy được thứ Mục Hiển nắm trong tay. Phía sau chiếc chìa khóa này ẩn tàng điều gì có thể giúp nó giải được câu đố trước khi chết, Mục Hiển định làm gì?
Cuối tháng cả nhóm mới về đến Ngự Kiếm đường. Đại đa số kiếm đồng cũng đã tề tụ. Đường Mật theo chúng nhân đặt chân lên cửa chính Ngự Kiếm đường, trước mắt là một rừng màu trắng. Tuy dọc đường đã biết phải đối diện với sự thật nhưng khí nhìn thấy pha trắng tung bay chiêu hồn cho người chết vì sai lầm của nó, lòng nó lại hối hận khôn nguôi, cúi đầu tránh màu trắng sắc lẹm dưới ánh nắng xuân, mím môi đi về phòng.
Bạch Chỉ Vi nhận ra điều dị thường, đuổi theo nắm tay nó, cũng không nói gì, cùng về Mai uyển.
Trước táng lễ mấy ngày, Ngự Kiếm đường chìm trong không khí bi thương tất bật. Các kiếm đồng đều không cười nói, nhân sĩ võ lâm đến bái tế rất đông, mỗi kiếm đồng đều được giao một việc, ai nấy đều lo hoàn thành việc của mình, gặp nhau cũng chỉ chào sơ qua rồi đi tiếp. Tất cả kiếm đồng đều mặc áo vải gai trắng, càng khiến Đường Mật chìm trong biển màu trắng, có lúc nó đột nhiên thấy nghẹt thở, cơ hồ ngập trong thủy triều đau thương.
Mục Hiển trú trong một tòa viện đơn độc ở phía đông Ngự Kiếm đường. Từ lúc về, nó lén đến một lần, dùng chìa khó mở cửa, trong phòng trần thiết đơn giản, mấy tháng rồi không ai quét dọn, dưới ánh trắng xám bạc thì như phủ lên một lớp tuyết mỏng. Nó tìm kỹ mấy lần mà không thấy vật gì đáng chú ý.
Hôm sau, nó gặp Mộ Dung Trinh Lộ phu trách việc táng lễ, cố ra vẻ tùy ý nói là Ngân Hồ sẽ về, không hiểu nơi ở đã thu dọn chưa. Mộ Dung Trinh Lộ lúc đó mới nhớ ra: “Ờ, bận quá nên ta quên mất, Đường Mật, muội đi tìm mấy tạp dịch quét dọn qua loa đi. Nghe nói trên mình Mục điện giám không mang theo chìa khóa, đi tìm Chúc Ninh nghĩ cách mở ra.”
“Lúc đó muội nhặt được vật này trên bãi cỏ, có phải không?” Đường Mật lấy ra hỏi.
Mộ Dung Trinh Lộ liếc nhìn: “Không biết, muội thử đi, đúng thì mau quét dọn, ngày mai Ngân Hồ sẽ tới.” Đoạn vội vàng đi mất.
Như thế, nó chính đại quang minh ra vào chỗ Mục Hiển ở ngay giữa ban ngày ban mặt.
Nhưng dù ban ngày ban mặt nó cũng không tìm thấy gì, bất quá nó quen thuộc cơ quan, gõ gõ mọi chỗ xong cảm thấy phía sau giá sách là nơi dễ có cửa ngầm nhất. Giá sách chất đầy, nếu cũng như ngăn kéo ở thực đường, phải đổi vị trí từng ngăn mới mở được cơ quan thì thật sự phiền hà, nó cũng lay lay từng quyển sách mà không thấy cơ uan gì. Nó chợt nghi hoặc, không hiểu Mục Hiển bảo mình đến đây tìm thứ gì.
Nó cầm chìa khóa lên nghịch, nhớ ra Mộ Dung Trinh Lộ bảo mình đi mở khóa, hình như có điểm bất thường, chìa khóa này chỉ làm bằng đồng thông thường, muốn mở loại khóa kiểu này không khó khăn gì, Mục Hiển dùng để khóa những thứ quan trọng thì hơi bất cẩn.
Chìa nếu không hợp với khóa thì còn có tác dụng gì? Đường Mật vừa nghĩ vừa quan sát. Gian phòng này trừ chỗ ngủ và giá sách ra chỉ còn hòm gỗ đàn lớn đựng quần áo và đồ vật linh tinh, nó đã tìm đi tìm lại mấy lần trong đó rồi. Trước giá sách có bày một cái trường kỷ, trên đó trừ bút mực đài nghiên ra không còn gì, bên cạnh là đĩa đèn bằng đồng. Ngọn đèn mang hình dáng người nâng bình nước thường thấy, hai tay giơ lên đỡ lấy thân đèn, giống như hình thiên bình.
Hai từ “thiên bình” lóe qua đầu óc nó, trong lòng sáng lên, chạy đến thử lay động ngọn đèn. Quả nhiên không thể lay động, biết ngay cơ quan ở đó, bèn cho chìa vào đế đèn cao hơn ở bên không có đĩa đèn, đợi một lúc sau mà không thấy động tĩnh gì.
Nó tưởng mình tìm được bí mật mở cơ quan, lợi dụng trọng lượng chìa khóa để đưa “thiên bình” về đúng vị trí, nhưng bây giờ hoàn toàn vô dụng. Nó quan sát đĩa đèn thật kỹ, ánh mắt dừng lại một chút ở đĩa đèn thấp hơn, chợt cầm đế lên, đổ sạch dầu chưa đốt hết đi rồi bỏ chìa khóa vào đế cao hơn, quả nhiên đĩa đèn từ từ dâng lên, đến khi cân bằng với đĩa để chìa khóa thì dừng lại. Rồi tiếng lách cách rất khẽ vang lên, nó quay lại đẩy giá sách, một hốc ngầm xuất hiện.
Hốc ngầm này cực nhỏ, được xây trên tường, bên trong đặt một cái bao vải màu lam, một hộp gỗ nhỏ cũng mấy tờ giấy.
Nó mở bao màu lam ra trước, bên trong đặt một chiếc chìa khóa hình cái lược và hai phong thư. Nó cầm chìa khóa lên, thoạt nhìn là nhận ra để mở địa cung bên dưới chính điện Ngự Kiếm đường. Nó từng nghiên cứu kỹ cái lược tinh thiết của mình, nhận ra răng lược tuy cách nhau không nhiều nhưng mỗi răng đều có khác biệt cực kỳ tinh tế, làm giả không dễ tí nào. Giờ so ra, cái lược của nó nhiều hơn của Mục Hiển mấy răng, hiểu ngay vì sao lão không mở được một số cánh cửa vì những cánh cửa đó cần những răng lược mà chìa khóa của lão thiếu, còn chưởng môn có thể mở được kiếm thất. Còn về ý tưởng của Vương Lẫm để chưởng môn và điện giám khống chế nhau thì nó đoán rằng, chìa khóa của chưởng môn cũng thiếu mất vài răng, mỗi người khả dĩ mở những gian phòng khác nhau dưới địa cung, tất nhiên khả năng lớn hơn là cả chưởng môn và điện giám gộp lại cũng không thể mở được hết mọi khung cửa dưới địa cung, theo ý thức nó sờ lên Vị Sương, biết mình có trong tay chìa khóa mở được toàn thể địa cung.
Nó nhìn hai phong thư trong bao. Bức đầu tiên ghi: “Gửi chưởng môn, điện giám cùng các tông chủ”, gợi cho nó nhớ lại lời Ngọc Diện rằng khi Vương Lẫm khứ thế có viết thư cho năm người tối cao ở Thục Sơn, xem ra là bức này. Chữ viết đúng là chữ nó từng thấy, kiểu chữ nghiêng ngả của Vương Lẫm, dặn dò cách điều hành Thục Sơn sau khi ông ta mất. Quả nhiên Vương Lẫm là người không thủ cựu quan niệm môn phái, có một đoạn đại ý rằng người Thục Sơn không nhất thiết phải câu nệ hai chữ Thục Sơn, đến các nước tìm công danh cũng được, tự khai môn lập phái cũng được, Thục Sơn chỉ dạy đệ tử hai chữ “nhân” và “hiệp”.
Đường Mật thầm thở dài, tất nhiên hiểu rõ dụng tâm của Vương Lẫm, như thế một là có thể dùng nhân tài giúp rập bốn nước, hai là mọi người Thục Sơn đều mang lòng “nhân hiệp”, trên đời sẽ bớt đi không biết bao nhiêu là phân tranh. Chỉ tiếc rằng hiện giờ người Thục Sơn vì thế mà bị cuốn vào vòng danh lợi, e rằng lúc còn sống ông ta không ngờ tới. Xem ra Vương Lẫm đã đánh giá quá cao sức ảnh hưởng của mình, lòng người là vật khó khống chế nhết, nguyện vọng của ông ta chỉ e thần tiên mới đạt thành được. Nó nghĩ vậy rồi đọc tiếp.
Đoạn thứ hai nói về sau khi ông ta khứ thế trăm năm thì dùng cách nào nghênh tiếp chuyển thế của ông ta. Nó đọc đi đọc lại đoạn này vẫn không hiểu. Thứ viết rằng ngày ông ta khứ thế tròn trăm năm, bất luận chưởng môn, điện giám và tông chủ đương thời là ai cũng phải đến Tị thất trên Tịch Chiếu phong, dùng âm dương làm tâm bày Ngũ hành trận, tụ tâm lực và nội lực của năm người vào Âm dương chi tâm cung nghênh ông ta chuyển thế. Đường Mật chưa từng nghe nói đến Tịch Chiếu phong, Tị thất và Âm dương chi tâm, nhưng nó biết điều quan trọng hơn cả những thứ đó là Vương Lẫm sẽ chuyển thế trùng sinh. Tuy việc đó khác xa quan niệm của nó nhưng đành công nhận việc đó có thật, ngày đó đúng vào hai năm trước khi nó đến Thục Sơn, vậy thì Vương Lẫm chuyển thế vì sao lại chết? Nó càng nghĩ càng hồ đồ, đành xem tiếp.
Nội dung đoạn thứ ba cho thấy chính Vương Lẫm cũng không chắc mình có thể chuyển thế không, ông ta bảo hậu nhân rằng nếu dùng cách trong thư mà không đón được chuyển thế thì sau trăm năm, pháp thuật ông ta thi triển để bảo vệ Thục Sơn và khắc chế ma huyết mất tác dụng thì những nhân vật chủ chốt của Thục Sơn dùng sức mình duy trì. Ông ta nói rõ từng điểm kết giới, ở chỗ nào nên dùng pháp thuật nào, đặc biệt nhắc đến khi Thục Sơn nguy vong, dùng mọi cách rồi mà vẫn vô dụng thì đến lăng mộ ông ta tìm cách sau cùng. Tiếp đó là phương pháp vào trong mộ địa.
Nó nhét thư vào bao, xem bức thứ hai. Bức này cũng do vương lầm viết, dành cho điện giám Ngự Kiếm đường, truyền thụ thuật Phách thủy để sử dụng khi cần thiết.
Xem xong mọi thứ trong bao, nó đoán rằng đây là những thứ mỗi điện giám Ngự Kiếm đường giao cho điện giám kế nhiệm, điều kỳ quái duy nhất là nếu đúng như Tạ Thượng nói, pháp thuật để lại phải là pháp thuật lợi hại nhưng thuật Phách thủy chỉ để mở đường dưới nước, lẽ nào có liên quan đến việc ngày đó nó thấy Mục
Similar topics
» Thục sơn thiếu niên (chương 15)
» Thục sơn thiếu niên (chương 33-35)
» Thục sơn thiếu niên (chương 60)
» Thục sơn thiếu niên (chương 25)
» Thục sơn thiếu niên (chương 16)
» Thục sơn thiếu niên (chương 33-35)
» Thục sơn thiếu niên (chương 60)
» Thục sơn thiếu niên (chương 25)
» Thục sơn thiếu niên (chương 16)
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết